MỘT BÀI THƠ HAY CỦA TRẦN NGUYÊN ĐÁN

 

Trần Nguyên Đán (1325 – 1390) đại thần, nho sĩ, nhà thiên văn kiêm đạo gia

 

      Đây là bài thơ của một vị quan đại thần triều nhà Trần. Nhìn thấy thế sự nhiễu nhương ông đã sớm về Côn Sơn, dồn hết tâm chí vào đứa cháu ngoại. Đó là Ức Trai thi sỹ – Nguyễn Trãi, người anh hùng, nhà văn hóa kiệt xuất của dân Việt và của nhân loại. Đọc một bài thơ về Xuân của một người có tên rất Xuân, ta thấy cái nguyên nhân nào có một “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo”.

*Nguyên tác:

        小雨

小春山雨細霏微

出岫雲深片片飛

障日濛漫昏似曉

随風箫瑟密還稀

梅含玉粒傳天信

竹并琅簪泄地機

睡起炉香殘幾度

村翁未把一黎歸

                  (陳元旦)

*Phiên âm

Tiểu vũ

Tiểu xuân sơn vũ tế phi vi

Xuất tụ sơn thâm phiến phiến phi

Chướng nhật mông man hôn tự hiểu

Tùy phong tiêu sắt mật hoàn hy

Mai hàm ngọc lạp truyền thiên tín

Trúc tính lang trâm tiết địa ky

Thụy khởi lô hương tàn kỷ độ

Thôn ông vị bả nhất lê quy.

                        (Trần Nguyên Đán)

*Dịch nghĩa

Mưa nhỏ

Tiết tiểu xuân mưa núi lất phất

Mây dầy đặc từ hang núi bốc lên từng đám

Mưa rây che mặt trời khi tối khi sáng

Theo làn gió hiu hiu hết nhặt lại thưa

Cây mai ngậm hạt ngọc như đưa tin thời tiết của trời

Khóm trúc cài trâm ngọc xanh  như để lộ sự huyền bí của đất

Ngủ dậy hương trong lò đã tàn mấy lượt

Nhưng ông già trong xóm vẫn chưa vác cày về.

 

*Bản dịch của Đỗ Đình Tuân

Tiểu xuân mưa núi lay phay

Mưa từ hang núi bốc dầy từng cơn

Mưa rây che nắng chập chờn

Gió đưa khi nhặt khi khoan từng hồi

Tuyết mai lún phún tin trời

Trâm măng khóm trúc nói lời đất sâu

Tỉnh ra lò tắt đã lâu

Ông già trong xóm cày đâu đã về.

 

*Bản dịch của Thiềng Đức

Mưa nhỏ núi xuân rơi lất phất

Mây giăng hang đá nhẹ nhàng bay

Mặt trời sớm tối trông mù mịt

Đàn sáo gió sương nghe lắt lay

Mai ngậm lược ngà trời ám hiệu

Trúc cài trâm ngọc đất sum vầy

Mấy lần tỉnh giấc lò hương tắt

Ông lão về thôn… ruộng chửa cày.

 

Vừa chớm xuân, mưa bụi rất đặc trưng cho khí trời đất Bắc. Ở trong chốn lâm tuyền ắt hẳn là lạnh giá. Lạnh hơn là mùa đông thế sự của triều nhà Trần.

Mưa rây che hết mặt trời; gió làm cho mưa lúc thưa lúc nhặt. Nhưng nhà thơ đã nhìn cây mai phẩm tiết quân tử ngậm ngọc, cây trúc trượng phu cài trâm rất đẹp, rất đàng hoàng, chính trực. Thời tiết của triều đình, cây trúc cây mai của nhân cách dường như đổi lập.

Thật bất ngờ, một hình tượng giản dị lọt vào tứ thơ của quan tư đồ. Nó hồn nhiên, dung hợp với đất trời, bất chấp thế sự. Đó là “ông già trong xóm vẫn chưa vác cày về”. Nhà thơ mô tả một hình ảnh thường xảy ra vào lúc mình “Ngủ dậy hương trong lò đã tàn mấy lượt”. Thế mà hôm nay, sự kiện ấy chưa xuất hiện.

Có cái gì đó như ăn năn, như tự trách mình. Đều là chúng sinh đầu đen máu đỏ, đều là sinh mệnh con người trong cõi Tam Giới u mê mà người thì làm quan to, được sống nhàn nhã trong lầu son vọng các; người thì phải vất vả vác cày đi làm từ sáng sớm. Người thì ngâm vịnh thơ phú, sau một giấc ngủ ngon,ngủ nướng  trong ấm cúng với lò hương tỏa thơm không gian thật dễ chịu; còn nông phu kia vác cày đi từ sớm đến giờ chưa về. Đây là một lão ông; một nông dân cùng lứa với quan Tư Đồ. Ông ta giờ này vẫn dầm mưa, chịu lạnh để làm ra hạt lúa củ khoai, không chỉ nuôi mình mà nuôi những người mũ cao áo rộng trong triều.

Không có tước vị ở đây, chỉ có tấm lòng nhân hậu “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” của một tấm lòng luôn nghĩ tới người trước lúc nghĩ về mình. Cao hơn nữa đó là tấm lòng mang nỗi “tiên ưu” muốn dân mình sống trong an nhàn hạnh phúc. Một tấm lòng lớn “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông” như vậy được chúng ta nhìn ở một chi tiết thô mộc cuối bài thơ.

Thông thường, những người thấp cổ bé họng mới thấy bất công với các bề trên mà than thân và phản kháng. Ở đây, quan Tư Đồ lại tự làm một người thứ ba để quan sát, nhận xét kín đáo về một ông quan và một lão nông phu. Nghĩ về người  trước lúc nghĩ về mình đã là đáng quý. Đàng này, nghĩ về người thấy mình là một giai tầng đáng trách thì quả là một con người đã dám nhìn thẳng vào sự thật. Đạo Gia gọi đó là Chân Nhân. Phật Gia gọi là tâm từ bi…

Không có sự cách biệt giữa một vị đại quan với một người nông  phu vô danh vốn được gọi là “dân đen, con đỏ”. Phải chăng đây chính là nguồn năng lượng cung cấp cho Nguyễn Trãi suốt đời thực thi lí tưởng Thân Dân: “Việc Nhân Nghĩa cốt ở an Dân”; “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”; “Dành, còn để trợ Dân này.. “.

“Yêu dân như con” không phải là sáo ngữ đầu môi chót lưỡi của ông ngoại Nguyễn Trãi.

Một bài thơ Xuân mà cho ta bao nghĩ suy về nhân cách của người xưa. Nó góp thêm cho ta cái nhìn nhân quả trên diện hẹp khi tìm hiểu về tư tưởng của Nguyễn Trãi, về thơ ca kiệt xuất của người cháu ngoại rất xứng đáng của Trần Nguyên Đán…

                                                                                               La Vinh