Chiến thắng Bạch Đằng qua thơ Đường luật của các tác giả thời Trần LS :

 

                          LS :Phan XuânBính                                                                                   

                      Trong lịch sử kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc (Trung Quốc) của các triều đại phong kiến độc lập tự chủ nước ta, có ba cuộc quyết chiến chiến lược do ba triều đại khác nhau, tiến hành cách nhau hàng trăm năm song đều được diễn ra trên cùng một dòng sông và cùng với một chiến thuật, đã mang lại chiến thắng vĩ đại, quyét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, bẻ gãy ý chí xâm lược nhiều năm sau của ba triều đại phong kiến phương Bắc. Dòng sông huyền thoại đó là sông Bạch Đằng (*). Ba trận thủy chiến vĩ đại đã diễn ra trên Bạch Đằng giang, là:

– Năm 938 quân Nam Hán (Trung Quốc) theo hai đường thủy, bộ xâm lược nước ta. Cánh quân thủy dưới sự chỉ huy của Hoằng Thao, cho chiến thuyền từ biển theo sông Bạch Đằng tiến vào. Dưới sự lãnh đạo chỉ huy của Ngô Quyền, quân ta đã dùng cọc lớn, vát nhọn, đầu bịt sắt cắm ngầm dưới khúc sông trước cửa sông Bạch Đằng, khi nước thủy triều lên che khuất những cọc nhọn, cũng là lúc thủy binh Nam Hán tiến vào, quân ta giả vờ thua dụ Hoằng Thao đuổi theo. Khi đoàn chiến thuyền giặc vượt qua trận địa cắm cọc nhọn mà không hề hay biết gì, chờ khi thủy triều xuống nhanh, quân ta ở hai bên bờ phối hợp với lực lượng thủy quân trên những thuyền nhỏ, nhẹ lướt trên sóng đồng loạt phản công mãnh liệt, khiến quân giặc bất ngờ, những chiến thuyền chở đầy quân hỗn loạn, không kịp quay đầu, đúng lúc thủy triều xuống, nước rút nhanh, cọc nhọn dưới đáy sông lúc này đã nhô lên tua tủa, thuyền giặc chở đầy quân bị đâm thủng chìm tại chỗ, mang theo chủ tướng Hoằng Thao và hàng ngàn tên lính xuống dòng sông đỏ ngầu hôi tanh máu giặc. Vua Nam Hán cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó. Nghe tin Hoằng Tháo tử trận, Lưu Cung kinh hoàng, thu nhặt số quân còn lại tháo lui. Từ đó, nhà Nam Hán bỏ hẳn mộng xâm lược nước ta. Sau chiến thắng lẫy lừng này, năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, xưng là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa (tức Đông Anh, Hà Nội ngày nay).

– Gần nửa thế kỷ sau chiến thắng năm 938, mùa xuân năm 981, hơn 4 vạn quân Tống (Trung Quốc) do Hầu Nhân Bảo chỉ huy theo hai đường thuỷ, bộ đánh chiếm nước ta. Cánh quân thủy từ Quảng Châu (Quảng Đông-Trung Quốc) vượt biển theo sông Bạch Đằng tiến vào. Quân dân ta dưới sự lãnh đạo chỉ huy trực tiếp của Lê Hoàn / Lê Đại Hành đã vận dụng chiến thuật đánh thắng quân Nam Hán 43 năm trước của Ngô Quyền, đã ngăn chặn và nhấn chìm đoàn chiến thuyền giặc, khiến quân Tống không thể hợp quân đánh sâu vào đất ta. Cùng với thắng lợi trên các trận địa khác, đại thắng trên sông Bạch Đằng đã làm phá sản kế hoạch xâm lược nước ta của  quân Tống. 

– Trên ba trăm năm sau chiến thắng Bạch Đằng năm 981 của Lê Hoàn, năm 1288, hàng vạn quân xâm lược Nguyên-Mông (Trung Quốc) bị quân dân nhà Trần  nhấn chìm trên sông Bạch Đằng, cũng với chiến thuật dùng cọc nhọn cắm dưới sông đại phá quân Tống 307 năm trước. Chỉ có khác một điểm với hai trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng lần trước, lần này thủy quân Nguyên bị đánh trên đường tháo chạy về nước để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn ở Thăng Long và các nơi khác. Đội quân này do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy được lệnh rút theo sông Bạch Đằng ra biển. Sông Bạch Đằng được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chọn để bố trí một trận địa cọc nhọn cắm dưới lòng sông, cho quân mai phục đại qui mô để chôn vùi đạo quân Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp. Chiến thuật của Ngô Vương, của Lê Đại Hành từ thủa phá quân Nam Hán, quân Tống năm xưa lại một lần nữa được vận dụng sáng tạo trong trận quyết chiến chiến lược này. Lần này, đoàn chiến thuyền của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp trên đường tháo chạy ra biển, bị thủy quân nhà Trần dụ nhử “điều” đoàn chiến thuyền nặng nề chở đầy quân rơi vào trận địa cọc. Đúng thời điểm nước thủy triều rút mạnh, mũi các chiến thuyền cồng kềnh nhà Nguyên cứ theo hướng nước triều rút mạnh ra biển mà chạy băng băng không gì cản nổi, bất ngờ đâm vào hàng ngàn mũi cọc nhọn nhô lên trên mặt nước, bị vỡ, bị thủng, chìm xuống đáy sông. Quân ta từ hai bên bờ đánh xuống, những thuyền lửa cháy rừng rực được quân ta phóng ra, theo dòng nước lao xuống khu vực thuyền chiến giặc đang ùn ứ, gây nên một biển lửa, thiêu dụi đoàn thuyền giặc. Chủ tướng giặc đều bị bắt sống.  Hàng vạn quân xâm lược bị vùi xác dưới đáy sông Bạch Đằng. Cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ ba của quân Nguyên Mông thất bại. Chiến thắng sông Bạch Đằng lần này đã nhấn chìm vĩnh viễn mộng thôn tính nước Đại Việt của đế quốc Nguyên Mông.

Những chiến thắng to lớn của dân tộc ta trên sông Bạch Đằng là những khúc tráng ca sống mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam, từ thời này qua thời khác.  Hùng khí chiến thắng ấy là chất liệu vô cùng quí để văn nghệ sĩ khai thác làm nên những áng thơ văn hào sảng, phóng khoáng, cao diệu. Song, do thời gian, chiến tranh binh lửa thiêu hủy, đến nay, chúng ta mới biết thơ văn về những chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng nói chung, chiến thắng Bạch Đằng lần thứ ba của nhà Trần nói riêng, mới có ở thời Trần và, cũng vô cùng ít ỏi, chỉ  có ba bài thơ Đường luật. Đó là:- “Bạch Đằng giang” của vua Trần Minh Tông; -“Bạch Đằng giang” của Nguyễn Sưởng; – “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu;

  1. Bạch Đằng giang” của Trần Minh Tông

“Vãn vân kiếm kích bích toàn ngoan,

Hải thẩn thôn triều quyển tuyết lan.

Xuyết địa hoa điền xuân vũ tễ,

Hám thiên tùng lại vãn sương hàn.

Sơn hà kim cổ song khai nhãn,

Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.

Giang thuỷ đình hàm tà nhật ảnh,

Thác nghi chiến huyết vị tằng can.”

Dịch nghĩa:

“Núi biếc cao vút, tua tủa như gươm giáo kéo lấy tầng mây,

Hải thẩn nuốt thuỷ triều cuộn làn sóng bạc.

Hoa vàng điểm tô mặt đất lúc mưa xuân vừa tạnh,

Tiếng sáo thông rung chuyển trời khi sương chiều lạnh lẽo.

Non sông này xưa nay đã hai lần mở mắt,

Cuộc hơn thua giữa Hồ và Việt thoáng qua như một lúc dựa vào lan can.

Nước sông chan chứa rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối,

Còn ngỡ là máu chiến trường thuở trước chưa từng khô.”

Dịch thơ:

“Chạm mây gươm giáo, xanh von vót,

Sóng tuyết khi đầy lại lúc vơi.

Mưa tạnh hoa phô vàng mặt đất,

Sương lừa thông réo tiếng vang trời.

Non sông kim cổ hai lần dậy,

Hồ Việt hơn thua, một thoáng thôi.

Chan chứa dòng sông ngầu bóng xế,

Ngỡ là máu giặc hãy còn tươi.”   

                            (dịch thơ: Đào Phương Bình, Nam Trân)

Trần Minh Tông (1300-1357) là con vua Trần Anh Tông, vị vua thứ 5 của triều Trần, ở ngôi vua từ năm 1314 – 1329, sau đó lên làm Thái thượng hoàng. Khi Trần Minh Tông lên ngôi, đất nước vừa trải qua 2 cuộc chiến tranh, bị quân xâm lược tàn phá, với biết bao khó khăn chồng chất phải vượt qua để khôi phục đất nước, xây dựng cuộc sống mới. Dư âm của những chiến thắng vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông, đặc biệt là chiến thắng trên sông Bạch Đằng của ông cha và quân dân cả nước vẫn còn vang vọng, là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên đức vua trên con đường lãnh đạo đất nước. Cảm phục và tự hào về chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, ông đã làm bài thất ngôn bát cú “Bạch Đằng giang”. Trong bài thơ, ông đã ngợi ca địa thế hùng vĩ của những ngọn núi hai bên bờ sông: “Núi biếc cao vút, tua tủa như gươm giáo kéo lấy tầng mây”, và con sóng Bạch Đằng như con thuồng luồng nuốt thủy triều, cuộn làn sóng bạc: “Hải thẩn nuốt thuỷ triều cuộn làn sóng bạc.”. Tuy không trực tiếp tham gia chiến đấu, nhưng chỉ qua lời kể của những người đã làm nên trận đánh kinh thiên động địa nhấn chìm hàng trăm chiến thuyền và hàng vạn quân xâm lược năm xưa, với tâm hồn thi sĩ, Trần Minh Tông trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối, (lầm tưởng) là máu quân thù trên chiến trường vẫn chưa khô:

“Nước sông chan chứa rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối,

Còn ngỡ là máu chiến trường thuở trước chưa từng khô.”

Mấy chục năm sau chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, vẫn là con sông Bạch Đằng đều đặn thủy triều lên xuống mỗi ngày, nhưng nhờ chiến tích lẫy lừng ấy, ông vua trẻ – thi sĩ Trần Minh Tông vẫn cảm nhận một mùi máu tanh hôi trên dòng sông. Với nhà thơ, dù theo thời gian, nước vẫn trôi nhưng chiến tích lịch sử hào hùng của cha ông thì vẫn còn lưu lại mãi. Thật tự hào biết bao!

  1. “Bạch Đằng giang” của Nguyễn Sưởng

“Kinh quán sơn hà thảo mộc xuân,

Hải triều húng húng thạch lân tuân.

Thuỳ tri vạn cổ Trùng Hưng nghiệp,

Bán tại quan hà bán tại nhân.”

Dịch nghĩa:

“Mồ chôn quân thù cao như núi, cây cỏ xanh tươi,

Nước thuỷ triều ngoài biển ầm ầm, đá núi lởm chởm.

Mấy ai biết sự nghiệp muôn thuở đời Trùng Hưng,

Một nửa nhờ địa thế núi sông, một nửa do con người.”

Dịch thơ:

“Mồ giặc như non, cây cỏ tươi,

Ầm ầm lởm chởm đá triều khơi.

Trùng Hưng sự nghiệp đời ai biết,

Nửa thế núi sông, nửa tự người.”

                                         (dịch thơ: Lương Trọng Nhàn)

Nguyễn Sưởng hiệu là Thích Liêu, quê quán, năm sinh, năm mất đều chưa rõ, chỉ biết ông sống cùng thời với Trần Quang Triều (1286-1325), Nguyễn Ức (?-?), Nguyễn Trung Ngạn (1289-1368),… và mất sau Trần Quang Triều. Như vậy, có thể khẳng định Nguyễn Sưởng chào đời trước hoặc sau cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên-Mông lần thứ ba (1288) khoảng 2-3 năm. Di sản thơ văn của Nguyễn Sưởng còn lại 16 bài, trong đó có bài thất ngôn tứ tuyệt “Bạch Đằng giang”. Tuy chỉ có 4 câu, nhưng tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp, cái hồn của sông Bạch Đằng. Đó là vẻ đẹp của sự hùng vĩ, như thể tạo hóa đã sắp sẵn nơi đây thành đất hiểm, dữ dội, linh thiêng, thành chiến địa vùi chôn tham vọng ngông cuồng của bất cứ bọn xâm lược ngoại bang nào, bất kể chúng từ đâu tới. Ngay ở câu thơ đầu “Mồ giặc như non, cây cỏ tươi” đã cho thấy sông Bạch Đằng trong cái nhìn thi nhân là cái nhìn động, phát triển. Qua thời gian, trên những nấm mồ giặc năm xưa nay đã mang một dáng hình đầy sức sống.  Với Nguyễn Sưởng chiến thắng năm xưa là cội nguồn của cuộc sống tươi đẹp ngày hôm nay, sức sống của hiện tại bắt nguồn từ chiến công trong quá khứ. Nhưng với câu thơ thứ hai “Ầm ầm lởm chởm đá triều khơi.”, tác giả đã khẳng định mặc cho thời gian, trời đất biến thiên, sông Bạch Đằng vẫn giữ khí chất oai hùng của mình. Muôn năm sau, Bạch Đằng giang vẫn tiềm tàng sức mạnh vô song, vẫn vững vàng tư thế sẵn sàng xung trận nếu kẻ thù kéo đến dày xéo non sông đất nước. Ngợi ca địa thế hùng vĩ của dòng sông, cũng là cách Nguyễn Sưởng khẳng định vai trò, yếu tố địa linh trong chiến trận. Địa thế hiểm trở của Bạch Đằng, có thể làm tiêu vong cuồng vọng của bất kỳ đội quân xâm lược nào. Nhưng, nhà thơ khẳng định, để làm nên chiến thắng, ngoài vai trò của yếu tố địa thế hiểm trở của sông Bạch Đằng, thì con người là yếu tố quyết. Đó là trí thông minh, tài quân sự của  Ngô Vương, Lê Đại Hành, của Trần Hưng Đạo và lòng yêu nước, ý chí chống ngoại xâm bảo vệ đất nước của nhân dân ta:

“Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết,

Nửa do sông núi, nửa do người.”

  1. “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu

“Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.

Cửu Giang, Ngũ Hồ,

Tam Ngô, Bách Việt.

Nơi có người đi,

Đâu mà chẳng biết. 

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,                                      

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

Bèn giữa dòng chừ buông chèo,

Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.

Qua cửa Đại Than,

Ngược bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng,

Thuyền bơi một chiều.

Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời một sắc,

Phong cảnh ba thu.

Bờ lau san sát,

Bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy,

Gò đầy xương khô.               

Buồn vì cảnh thảm,

Đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu. 

Bên sông bô lão hỏi,

Hỏi ý ta sở cầu.

Có kẻ gậy lê chống trước,

Có người thuyền nhẹ bơi sau.

Vái ta mà thưa rằng:

“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”

Đương khi ấy:

Thuyền tàu muôn đội,

Tinh kì phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,

Giáo gươm sáng chói.

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến luỹ bắc nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.

Kìa:

Tất Liệt thế cường,

Lưu Cung chước dối.

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi.

Thế nhưng:

Trời cũng chiều người,

Hung đồ hết lối

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Đến nay sông nước tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.

Tái tạo công lao,

Nghìn xưa ca ngợi.

Tuy nhiên:

Từ có vũ trụ,

Đã có giang san.

Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!

Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,

Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.

Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

Tiếng thơm còn mãi,

Bia miệng không mòn.

Đến chơi sông chừ ủ mặt,

Nhớ người xưa chừ lệ chan.

Rồi vừa đi vừa ca rằng:

“Sông Đằng một dải dài ghê,

Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”

Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:

“Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”

                                (dịch thơ: Đông Châu, Bùi Văn Nguyên)

Trương Hán Siêu (?- 1354) là môn khách của Trần Hưng Đạo (1229-1300), một danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng, có tài văn chương và chính trị. Ông tham gia cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ hai và ba. Năm 1353, mặc dù tuổi đã cao (khoảng 80 tuổi), sức lực đã yếu, song khi được vua Trần Minh Tông tin tưởng “chọn mặt gửi vàng” giao phó trọng trách, ông vẫn tái ngũ, đem quân trấn giữ Hóa Châu. Sau 1 năm, nhiệm vụ dẹp loạn hoàn thành, song ông đã mất trên đường trở về. Sau khi qua đời, Trương Hán Siêu được vua Trần truy phong là Thiếu Bảo. Di sản thơ văn Trương Hán Siêu tuy không nhiều, nhưng có một số tác phẩm nổi tiếng, trong đó có “Bạch Đằng giang phú” được xếp vào hạng kiệt tác. Cho đến nay, mới chỉ đoán định Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú” sau khi Trần Hưng Đạo mất. Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang” theo thể phú cổ – một thể văn như một bài văn xuôi dài, có vần mà không nhất thiết có đối, dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình con người, mang đậm chất trữ tình, pha chút khoa trương.

“Khách có kẻ:  

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.

Cửu Giang, Ngũ Hồ,

Tam Ngô, Bách Việt.

Nơi có người đi,

Đâu mà chẳng biết.”

“Khách có kẻ” trong câu mở đầu “Bạch Đằng giang phú” là nhân vật trữ tình, không ai khác chính là Trương Hán Siêu. Qua lời thơ trên cho thấy “Khách” là một tao nhân mặc khách với rượu, túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển. “Khách” sống hòa mình với thiên nhiên, như một lữ khách du ngoạn thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Đêm thì “chơi trăng mải miết”, ngày thì: “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương / Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”. Với việc kể tên các danh lam thắng cảnh trên đất Trung Quốc rộng lớn, như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,…cứ như là “Khách” đã du lịch tới những nơi đó. Nhưng thủ pháp khoa trương đó thực ra chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nhằm  nói lên một cá tính, một tâm hồn: yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời của “Khách” mà thôi. “Khách” còn rất tự hào về thói “giang hồ” của mình:

“Nơi có người đi

Đâu mà chẳng biết.”

Các địa danh xa lạ không chỉ là cảnh đẹp mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và “tráng chí bốn phương” mới có thể “giương buồm…lướt bể” đi tới.

Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà “Khách” khoe là cũng đã đến: “Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều.” Không chỉ thăm thú một lần mà, đã thăm thú nhiều lần “chứa vài trăm trong dạ”, đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa thoả lòng, “Khách” vẫn còn “tha thiết” với bốn phương trời: “Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.”

Qua những câu thơ ở phần đầu bài phú vừa đề cập đến trên đây, đã phần nào nói lên cốt cách kẻ sĩ Trương Hán Siêu: chan hoà với thiên nhiên, lấy chữ “nhàn” làm trọng, không màng đến lợi danh tầm thường.

Với cánh buồm thơ, lữ khách Trương Hán Siêu tiếp tục lên đường thăm thú sông núi Đại Việt:

“Bèn giữa dòng chừ buông chèo,

Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.

Qua cửa Đại Than,

Ngược bến Đông Triều.”

Và, cánh buồm thơ đã đưa ông  đến chơi sông Bạch Đằng:

“Đến sông Bạch Đằng,

Thuyền bơi một chiều”.

Bạch Đẳng giang, con sông oai hùng của nước Đại Việt / Việt Nam. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc. Cuối thu (ba thu) nước trời một mầu xanh bao la:

“Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời một sắc,

Phong cảnh ba thu”

Nhưng sông Bạch Đằng đâu chỉ bình yên, phẳng lặng đó. Bạch Đằng giang còn có:

“Bờ lau san sát,

Bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy,

Gò đầy xương khô.”

Bằng những đường nét, màu sắc gợi cảm cao, Trương Hán Siêu đã tái hiện một Bạch Đằng giang lịch sử hùng vĩ, với cảnh núi non, bờ bãi, cảnh chiến trường năm xưa. Bờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu, hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xương cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Chỉ nghe tả thôi cũng khiến bất cứ ai nghe/đọc đều rùng rợn.

Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng (1288) “Khách” – nhà thơ đến thăm dòng sông:

“Buồn vì cảnh thảm

Đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.”

Những câu thơ trên đã lột tả tâm trạng: “buồn, thương tiếc”, một cảm xúc “đứng lặng giờ lâu” của “khách” đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông và sự tồn vong của dân tộc.

Ở đoạn thơ tiếp theo, nhân vật thứ hai trong Bạch Đằng giang phú xuất hiện. Đó là nhân vật “bô lão”, giữ vai trò người dẫn chuyện. Hai nhân vật “Khách” và “bô lão” – người hỏi, người đáp; người dẫn chuyện (bô lão), người đóng vai trò bình giải (Khách) về trận chiến trên sông Bạch Đằng, đã tạo nên một câu chuyện hấp dẫn, những nhận định, đánh giá xác đáng về tầm vóc chiến thắng mang tính khách quan cho tác phẩm:

“Bên sông bô lão hỏi,

Hỏi ý ta sở cầu.

Có kẻ gậy lê chống trước,

Có người thuyền nhẹ bơi sau.

Vái ta mà thưa rằng:

“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”

Đương khi ấy:

Thuyền tàu muôn đội,

Tinh kì phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,

Giáo gươm sáng chói.

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến luỹ bắc nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.

Kìa:

Tất Liệt thế cường,

Lưu Cung chước dối.

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi.

Thế nhưng:

Trời cũng chiều người,

Hung đồ hết lối

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”

“Khách” và “bô lão” ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên. Qua lời kể vô cùng nhiệt tình và hào hứng của “bô lão” (nhân chứng lịch sử được tác giả hư cấu), trận quyết chiến chiến lược trên sông Bạch Đằng năm 1288 được Trương Hán Siêu tái hiện khá rõ nét và hấp dẫn. Không khí của những tháng năm oanh liệt chống giặc phương Bắc của quân dân nhà Trần trong trận huyết chiến Bạch Đằng năm 1288 hiện dần, hiện dần lên rõ nét và hấp dẫn vô cùng qua những câu thơ mang tính tự sự, ngôn ngữ sống động, biến hóa của thể phú. Đó là sự hùng hậu của những chiến thuyền “thuyền bè muôn đội”, với những “tinh kì” tung bay phấp phới trên đỉnh mỗi con thuyền. Hơn hết là đội quân tinh nhuệ nhà Trần với tinh thần “Sát thát” cùng ánh sáng chói của những đao gươm “Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”. Thế trận giăng sẵn, tinh thần chiến đấu của quân dân tăng cao đó đã làm nên một trận chiến ác liệt, thuyền giặc bị nhấn chìm, kéo theo vô vàn binh lính. Tác giả mô tả trận chiến trên sông Bạch Đằng với khói lửa ngút trời bốc cao che lấp cả mặt trời, mặt trăng, khiến cho trời đất dường như muốn đổi sắc. “Hào khí Đông A” đã đạt tới đỉnh cao qua trận thủy chiến kinh thiên động địa do quân dân nhà Trần tạo ra trên sông Bạch Đằng bởi những lời thơ văn tuyệt kỹ của Trương Hán Siêu. Phải là người trực tiếp tham gia và chứng kiến trận chiến Bạch Đằng giang, phải là một thi nhân tài năng như Trương Hán Siêu mới cảm nhận và làm bật lên được tầm vóc lịch sử vĩ đại của trận Bạch Đằng. Chính điều đó đã làm toát lên ở “Bạch Đằng giang phú” âm điệu / âm hưởng anh hùng ca như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ bờ ngày đêm không nhỉ.

Và, sau những mô tả chiến trận dữ dội, hào hùng, xúc cảm của Trương Hán Siêu trầm sâu, thấm thía: 

“Đến nay nước sông tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.”

Ở đoạn thơ tiếp theo, như một sự lý giải nguyên nhân dẫn đến chiến thắng Bạch Đằng giang, Trương Hán Siêu đã nhấn mạnh tới thế hiểm yếu (địa lợi) của vùng sông núi Bạch Đằng:

“Tái tạo công lao,

Nghìn xưa ca ngợi.

Tuy nhiên:

Từ có vũ trụ,

Đã có giang san.

Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở”

Nhưng, Trương Hán Siêu nhấn mạnh đến một nhân tố quan trọng  hơn, đó là yếu tố con người làm nên chiến thắng. Ông nhắc đến những “nhân tài” thời Trần, tiêu biểu là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn “Bởi đại vương coi thế giặc nhàn”, với nỗi nhớ ứa lệ: “Nhớ người xưa chừ lệ chan”:

“Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!

Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,

Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.

Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

Tiếng thơm còn mãi,

Bia miệng không mòn.

Đến chơi sông chừ ủ mặt,

Nhớ người xưa chừ lệ chan.”

Nhưng rồi, sau dòng “lệ chan” xúc động, là nhường lời cảnh tỉnh nghiêm khắc những kẻ bất nghĩa sẽ bị tiêu vong, khẳng định công lao của những anh hùng mãi lưu trong sử xanh:

“Sông Đằng một dải dài ghê,

Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”

Chỉ với việc làm sống lại hình sông thế núi, tái hiện trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288 với những sự kiện sống động, hấp dẫn, tên những tướng giặc bại trận, vị chủ tướng – linh hồn của trận chiến là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn,…đã đủ để khẳng định Bạch Đằng giang phú là một áng văn vô cùng giá trị. Song, Trương Hán Siêu không chỉ dừng lại ở đó. Trương Hán Siêu – nhân vật “Khách” – người kể sử – đã nêu rõ nhân tố nào đã làm nên chiến thắng vĩ đại ấy. Theo ông, đó là hai nhân tố “đất hiểm” và “đức cao” của hai vị “thánh quân” Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Trong trận thư hùng giữa quân dân nhà Trần với quân Nguyên hùng mạnh, quân ta đã thắng (và cả 2 trận thắng trên sông Bạch Đằng của tổ tiên trước đó) không chỉ do ở Núi Sông hiểm trở mà còn do ở Tài Đức của  hai “thánh quân” Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông:

“Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”

Có được thế đất hiểm trở gây bất lợi cho giặc là một lợi thế trong chiến tranh cho ta song, để chiến thắng trong một trận chiến cũng như trong cả cuộc chiến, lợi thế đó chưa đủ. Mà, còn phải có yếu tố con người: tài và đức, trong đó, đức là yếu tố quyết định: “cốt mình đức cao”. Đây là một bài học lịch sử, một triết lý sâu xa, mang ý nghĩa thời đại sâu sắc:

“Giặc tan muôn thuở thanh bình

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”

Bài Phú sông Bạch Đằng là một áng văn tràn đầy lòng yêu nước, tinh thần tự cường dân tộc và hàm chứa một triết lý lịch sử sâu sắc khi nhìn nhận nguyên nhân thành công của dân tộc trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Bạch Đằng giang phú  không chỉ đưa lại cho người dọc một tình yêu thiên nhiên với cảnh trí tươi đẹp của non sông gấm vóc, mà còn đem đến một niềm tự hào lớn về truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm. Bài phú được xem là kiệt tác văn chương. Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII đã so sánh bài phú này với bài “Xích Bích phú” của Tô Đông Pha (đời Tống -Trung Quốc) rồi ngợi khen “văn thể phú triều Trần phần lớn khôi kỳ, hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ, âm vận, cách điệu giống như thể văn nhà Tống”. “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu được nhiều thế hệ ca ngợi là “một trong những áng thiên cổ hùng văn của văn chương nước Việt”.

Lời kết

  1. Ba nhà thơ viết về chiến thắng Bạch Đằng nói ở trên đều là những người sống trong thời đại nhà Trần. Song, trong ba tác giả ấy, chỉ có Trương Hán Siêu là người đã trực tiếp tham gia 2 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông (năm 1285 và 1288) trong đó có trận đại chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288, làm rực sáng hơn “Hào khí Đông A”. Trong khi đó, vào thời khắc lịch sử hào hùng ấy, Nguyễn Sưởng còn quá nhỏ, còn Trần Minh Tông sinh ra khi chiến tranh đã kết thúc 2 năm. Ba tác phẩm trên đều được sáng tác trong thời bình. Song, dù trực tiếp (như Trương Hán Siêu) hay không trực tiếp tham gia kháng chiến (như Trần Minh Tông và Nguyễn Sưởng), với tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm, niềm tự hào về cha ông, các tác giả đều cảm nhận được tầm vóc vô cùng vĩ đại của chiến thắng Bạch Đằng. Tài năng và tâm hồn nghệ sĩ đã giúp các tác giả ghi lại cảm xúc của mình qua những vần thơ, bài phú trở thành những đỉnh cao của thơ văn thời Trần, có sức sống vượt thời gian không chỉ đến hôm nay, mà mãi mãi tới muôn sau.
  2. Tuy các bài thơ, phú của ba tác giả có độ dài, ngắn khác nhau, song có một nội dung tư tưởng – một thông điệp mang tính cảnh báo cao được ba tác giả nêu rất thống nhất, là cũng con sông Bạch Đằng lẫy lừng chiến tích ấy mà nhiều năm sau chiến thắng quân Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng lần thứ ba (1288), các tác giả cùng cảm nhận một mùi máu giặc tanh hôi trên dòng sông vẫn còn. Dù theo thời gian, nước vẫn trôi nhưng dấu vết, chiến tích lịch sử thì vẫn còn lưu lại mãi:

“Nước sông chan chứa rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối,

Còn ngỡ là máu chiến trường thuở trước chưa từng khô.” (Trần Minh Tông)

  1. Ngợi ca địa thế hùng vĩ của dòng sông Bạch Đằng, khẳng định vai trò, yếu tố địa linh trong chiến trận là điểm chung trong ba tác phẩm. Và, các tác giả đều khẳng định, địa thế hiểm trở của Bạch Đằng là một lợi thế (địa lợi), song như thế chưa đủ để thắng trận, để làm tiêu tan cuồng vọng của quân xâm lược. Mà, để làm nên chiến thắng to lớn đó, ngoài vai trò của yếu tố địa thế hiểm trở của sông Bạch Đằng, yếu tố con người là yếu tố Quyết định. Đó là trí thông minh, tài quân sự của Ngô Vương, Lê Đại Hành, của hai vị “thánh quân” Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, và lòng yêu nước, ý chí chống ngoại xâm bảo vệ đất nước của nhân dân ta:

– “Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết,

Nửa do sông núi, nửa do người.” (Nguyễn Sưởng)

– “Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.” (Trương Hán Siêu)

“Thiên thời-Địa lợi-Nhân hòa” – là một tư tưởng quân sự, một bài học lịch sử, một triết lý sâu xa dựng nước và giữ nước, một Chân Lý mang ý nghĩa thời đại sâu sắc, nếu vận dụng đúng đắn, sáng tạo, đất nước ta có thể đánh bại bất cứ kẻ thù xâm lược nào, dù chúng đến từ đâu, có binh hùng, tướng mạnh đến bao nhiêu!

Khi đó, “Trăm con sông đều muốn hóa Bạch Đằng” (Chế Lan Viên)./.

—————————-

Tư liệu tham khảo:

  1. Thơ văn Lý Trần (tập II), NXB Khoa học xã hội, H. 1988
  2. Hợp tuyển Thơ văn Việt Nam (tập II), NXB Văn học, H. 1976

(*) Sông Bạch Đằng nằm giữa tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng, do sông Đá Bạc, sông Giá và nhiều nhánh sông khác đổ vào rồi chảy ra biển, bờ bên phải áp núi Tràng Kênh, bên trái có rừng bao bọc, tạo nên thế rất hiểm yếu. Phạm Sư Mạnh đã viết: 

“Mặt trời chiếu vào hang Dương Cốc là kỳ quan của vũ trụ

Vượng khí núi sông thu tụ ở sông Bạch Đằng”.

Nguyễn Trãi cũng có câu: 

“Cửa sông xung yếu do trời đặt ra,

Hai người chống được trăm người.

Những bậc anh hùng từng lập công ở đất này…”

P.X.B