Thú vui chơi thơ Đường luật Bài viết của Lã Vinh Cao bằng
Thú vui chơi thơ Đường luật
Thơ Ðường luật hình thành cách đây hàng ngàn năm, là thể thơ quen thuộc trong giới văn nhân, học sĩ và lan truyền rộng rãi trong dân gian, hầu như những người biết chữ ít nhiều đều lấy thơ Ðường luật làm thú vui tao nhã để vịnh cảnh, ngâm tình hoặc bày tỏ chí khí: Ðã mang tiếng ở trong trời đất/Phải có danh gì với núi sông (Nguyễn Công Trứ).
Thơ Đường luật cũng dùng để giao lưu, xướng họa, chia sẻ vui buồn trước nhân tình thế thái: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/Thương nhà mỏi miệng cái da da” (Bà Huyện Thanh Quan). Hoặc là “Mong sưởi cùng nhau bếp lửa hồng/Mong đời bớt lạnh những chiều đông/Mong tình ấp ủ hoa tươi sắc/Mong nghĩa giao hòa lộc nảy bông” (Thuận Bằng).
Đặc trưng của thơ Đường luật là tuân thủ chặt chẽ các yếu tố nghiêm luật, gieo vần, niêm thanh, đối ngẫu vần, niêm, đối làm cho người đọc dễ hiểu, dễ nhớ. Yếu tố luật buộc người sáng tác phải chịu khó học hỏi câu từ, ngữ pháp theo kiểu “dùi mài kinh sử” để đi thi tránh bị phạm quy. Đây chính là cái khó và sự gò bó của thơ Đường luật, cũng là nguyên nhân làm cho thơ Đường luật một thời bị sao nhãng trước sự ra đời của phong trào thơ mới, mà các nhà nghiên cứu sáng tác thường gọi là cuộc cách mạng về thơ ca.
Nhưng cách mạng đâu phải là sự đoạn tuyệt quá khứ! Nhờ bản sắc văn hóa độc đáo và đặc tính dễ lưu truyền, thơ Đường luật vẫn tồn tại và phát triển trường tồn trong đời sống văn hóa dân tộc và phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng; nhiều người vẫn nhớ và đọc thuộc những bài thơ Đường luật từ thời cách mạng kháng chiến như: “Cụ già thong thả buông cần trúc/Hồ rộng mênh mông mặt nước hồng/Muôn vạn đài sen hương bát ngát/Tuổi già vui thú với non sông”.
Trong bối cảnh bị kiểm soát gắt gao nơi vùng địch tạm chiếm, nhân dân gửi gắm tình cảm của mình bằng cách ghép bốn chữ đầu của bài thơ thành câu khẩu hiệu “Cụ Hồ muôn tuổi”, đây là một lối chơi chữ trong thơ Đường luật gọi là khoán thủ thi. Xướng họa đối đáp thơ Đường luật đã trở thành vũ khí sắc bén để phê phán thói hư, tật xấu hoặc hiện tượng bất công trong xã hội: “Khen ai khéo vẽ ra vui thế/Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu” (Nguyễn Khuyến).
Trong cuộc đấu tranh chống lại tư tưởng lệch lạc, sai trái, trong bài thơ Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Gửi ông Nguyễn Hải Thần”, khi ông ta thất thế trong cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên năm 1946, buộc phải cuốn gói theo chân quốc dân Đảng rời khỏi Việt Nam, nhưng vẫn cố tỏ ra cao ngạo, ngụy biện: “Mấy lời nhắn nhủ ông ghi nhớ/Ngược nước buông câu phải lựa mồi”. Bác Hồ khảng khái đáp lại nhẹ nhàng mà sâu sắc qua bài thơ “Bút chiến”: “Cờ tàn mới biết ai cao thấp/Há phải như ai cá thấy mồi”. Trong lịch sử nước ta, những bài thơ bút chiến như thế có rất nhiều, trong đó có bài “Nhắn Bạn” của Hoàng Văn Thụ: “Thân dẫu lao tù lâm cảnh hiểm/Chí còn theo dõi buổi tung hoành/Bạn hỡi gần xa hăng chiến đấu/Trước sau xin giữ tấm lòng thành”.
Cũng cảnh trong nhà tù đế quốc, ông Dương Công Hoạt, một lão thành cách mạng ở Cao Bằng vẫn ung dung tự họa bằng cả hai thứ tiếng Việt – Tày: Phòng giam ngày nọ thành phòng khách/Cổng sắt hôm nay hóa cổng hoa/Tuy bảo Tết tù nhưng “oách” lắm/Cút Xô còn đến chúc xuân ta (Tết trong tù). Rườn xăng vửa đú vần rườn khéch/Cổng lếch cà này piến cổng va/Dảu gạ Tết tù tọ “oách” lẳm/Cút Xô nhằng mẻn cúng hò gà (Tết chang tù).
Thơ Đường luật mặc dù nguồn gốc, xuất xứ là chữ Hán, nhưng qua quá trình tiếp cận, sàng lọc đã được ông cha ta cải biến Việt hóa và Tày hóa đơn giản, gần gũi, dễ hiểu hơn (không thiên về dùng điển tích như thơ chữ Hán ngày xưa).
Từ thuở ông Hàn Thuyên, các nho sĩ Việt Nam đã dùng chữ Nôm để sáng tác thơ Đường luật (ta gọi là Hàn luật). Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có cả tập Bạch Vân Quốc Ngữ thi tập: “Nước non nào phải của ai đâu?/Nhiều ít công tư cũng mặc dầu/Có chẳng giữ giàng, khôn chẳng lụy/Được chăng háo hức mất chăng âu/Anh hùng, người lấy tài làm trọng/Ẩn dật ta hay thú có màu”. Một thái độ rõ ràng của nhà chí sĩ tài danh, trước thời cuộc đua tranh xâu xé quyền lực của các tập đoàn phong kiến; ông vẫn luôn ra sức khuyên bảo muôn dân hãy giữ lấy điều lành, tránh nạn binh đao… Khiến cho đương thời và cả hậu thế mãi mãi nể trọng, kính phục.
Ngày xưa, thơ Đường luật với tính chất kinh viện (hay dùng điển tích) nên có người tự gọi đấy là dòng thơ “bác học”, tự cho là tinh túy, cao siêu, chỉ người học vấn cao mới làm được và chỉ có tầng lớp trung lưu mới biết đọc và hiểu được. Ngày nay, “thơ Đường đất Việt” đang vận động và phát triển theo hướng đại chúng hóa với nhiều ngón chơi đa dạng “99 ngón chơi thơ Đường luật” (Hoài Yên) gần gũi với cuộc sống đời thường. Nhiều người lao động nông thôn, trình độ văn hóa phổ thông vẫn thích nghe đọc thơ và giao lưu xướng họa thơ Đường luật, đặc biệt là thể tứ tuyệt 5 chữ hoặc 7 chữ đã trở nên khá quen thuộc trong các lễ hội giao lưu văn hóa, văn nghệ quần chúng.
Riêng ngón chơi Khoán thủ thi nếu đã có người khởi xướng thì người họa tùy theo cảm xúc của mình có thể chuyển ý, tìm câu từ để họa lại theo các chữ đầu đã định sẵn. Trong các cuộc vui, nhiều người thi nhau họa và bật ra ý tứ mới bổ sung hoàn thiện, thậm chí còn hay hơn cả bài xướng ban đầu. Đấy chính là thú vui độc đáo và tính quần chúng của thơ Đường luật.
Lã Vinh