Thơ LÊ QUÝ ĐÔN
LÊ QUÝ ĐÔN
(1726 – 1784)
Lê Quý Đôn, nhà văn hoá lớn của Việt Nam thời Hậu Lê, thuở nhỏ có tên là Lê Danh Phương, tự Đoãn Hậu, hiệu Quế Đường. Quê thôn Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình. Năm 1743 ông đỗ Giải nguyên, năm 1752 đỗ Bảng Nhãn. Được bổ là Hàn lâm thị độc, Tư nghiệp Quốc Tử giám. Năm 1760 làm Phó sứ đi Trung Quốc, sau khi về được phong tước Dĩnh Thành Bá rồi thăng Hàn lâm viện thừa chỉ, Đốc đồng Hải Dương. Sau chuyển về kinh làm Tổng tài Quốc sử quán. Năm 1773 làm Phó đô ngự sử, rồi thăng Hữu thị lang bộ Công, Bồi tụng. Năm 1776 được cử làm Tham thị Tham tán quân cơ các đạo Thuận Hoá, Quảng Nam. Sau đó về Thăng Long làm Hành Tham tụng tước Dĩnh Thành Hầu.
Ông mất ngày 2.6.1784, thọ 68 tuổi. Sau khi mất được truy tặng Thượng thư bộ Công, tước Dĩnh Thành Công. Lê Quý Đôn là một học giả uyên bác. Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị về các bộ môn lịch sử, địa lý, văn học, ngôn ngữ học, triết học v.v…
Các tác phẩm chính gồm : Quốc sử tục biên, Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục, Quần thư khảo biên, Xuân thu lược luân, Bắc sử thông lục, Toàn Việt thi lục, Vân Đài loại ngữ, Quế đường văn tập, Dịch kinh phủ thuyết, Kiến văn tiểu lục, Danh thần lục, Thư kinh diễn nghĩa, Toàn Việt văn tập, Hoàng Việt văn hải, Quế Đường thi tập và một số thơ, phú bằng chữ Nôm.
3 ĐỘ XƯƠNG GIANG
Nguyên tác : 渡 昌 江
天 古 關 河 係 要 衝
行 春 憑 眺 問 東 風
煙 晴 绿 野 新 畬 長
霜 冷 荒 園 舊 壘 空
帯 礪 存 開 國 遠 烈
旂 常 近 紀 静 氛 功
神 京 咫 尺 頻 回 望
萬 里 祥 雲 一 朵 紅
Phiên âm : Độ Xương Giang[1]
Thiên cổ quan hà hệ yếu xung,
Hành xuân bằng diểu vấn đông phong.
Yên tình lục dã tân dư trưởng,
Sương lãnh hoang viên cựu luỹ không.
Đới lệ[2] viễn tồn khai quốc liệt,
Kỳ thường[3] cận kỷ tĩnh phân công.
Thần kinh chỉ xích tần hồi vọng,
Vạn lý tường vân nhất đoá hồng.
Dịch thơ : Qua sông Xương Giang
Sông, ải từ xưa vốn hiểm nguy,
Gió đông theo nhẹ bước xuân đi.
Khói tan đồng đất màu xanh thắm,
Sương lạnh, vườn hoang, luỹ cũ suy.
Dựng nước hiển vinh còn mãi mãi,
Công lao ghi dấu ấn quân kỳ.
Kinh thành trông ngóng trong gang tấc,
Rực ánh mây hồng ta bước đi.
Phạm Đình Nhân Dịch 2007
[1]. Xương Giang tức sông Cầu chảy qua tỉnh Bắc Giang. Nơi đây có thành Xương Giang, năm 1427, năm vạn quân Minh cùng tướng chỉ huy là Hoàng Phúc, Thôi Tụ bị nghĩa quân của Lê Lợi đánh cho tan tác.
[2]. Đới lệ : nghĩa đen là “đai lưng, hòn đá mài”, dẫn từ lời thề phong công thần đời nhà Hán. “Sông Hoàng Hà dù có bé lại như cái đai lưng, núi Thái Sơn dù có nhỏ đi như hòn đá mài, thì đất được phong vẫn còn mãi mãi, để lại cho con cháu đời sau.
[3] Kỳ : cờ thêu giao long, có đính lục lạc. Thường : cờ thêu mặt trời, mặt trăng. Đó là các loại cờ thời xưa dùng trong đám rước, nghi trượng hoặc trong việc quân.