. Quách Tấn – gương mặt thơ Đường luật tiêu biểu ở nửa đầu thế kỷ XX
. Quách Tấn – gương mặt thơ Đường luật tiêu biểu ở nửa đầu thế kỷ XX
Điểm lại những gương mặt tiêu biểu cho dòng TĐL Việt Nam hồi NĐTKXX, đầu tiên phải kể đến nhà thơ Quách Tấn. Có khá nhiều lý do để khẳng định Quách Tấn xứng đáng là người đại diện cuối cùng cho “Một trường thơ đang hồi tẻ nhạt”. Thứ nhất, không ai hơn ông bởi lòng thủy chung như nhất với TĐL. Bất luận người ta nói gì, làm gì và đả phá như thế nào đối với TĐL, Quách Tấn vẫn thản nhiên dành gần như trọn cả đời mình cho thơ Luật. Theo ghi chép của Nguyễn Hiến Lê thì Quách Tấn có “trên một ngàn bài thơ Luật kể cả thơ dịch, lại chép hồi ký, phê bình hầu hết các nhà thơ Luật nổi tiếng ở nước ta, trong nửa thế kỷ nay, trước sau mấy chục nhà, gồm cả ngàn trang vẫn còn là bản thảo. Sau cùng lại viết một tập dạy cách làm thơ Luật… tập đó dày khoảng 200 trang, viết kỹ hơn cuốn để hiểu thơ Đường luật của Hư Chu…”. Tiếc rằng chúng ta không có trong tay tập bản thảo mà ông Hiến Lê nhắc tới. Tuy nhiên xem thế đủ biết, Quách Tấn có công lớn như thế nào trong việc kéo dài sinh mệnh nghệ thuật của thơ Luật ở Việt Nam. Thứ hai, trong bối cảnh những năm 30 đầy biến động và suốt khoảng thời gian thơ Mới thực hiện cuộc cách mạng trong thi ca, bằng Đường Luật, Quách Tấn vẫn đem đến cho bạn đọc một tiếng nói riêng, tuy nhỏ nhẹ, kín đáo nhưng đầy sức hấp dẫn. Khi “Một tấm lòng” trình làng hồi đầu năm 1939, nó đã được nhiều bạn đọc tiếp nhận một cách trân trọng. Ngay Tản Đà – một người vốn được coi là khó tính trong cách dùng câu đặt chữ, cũng phải hài lòng bởi những “nét vẽ hùng hậu, u ẩn, nhã chí, tính công” trong thơ Quách Tấn. Còn Hàn Mạc Tử, thì gần như mê đắm bởi thứ ánh sáng huyền diệu, mà Quách Tấn đã phủ lên hầu hết các bài thơ, đến nỗi phải thốt lên “Cứ mỗi tờ thơ là mỗi tờ trăng, thơm mát dịu dàng, cơ hồ có từng bản nhạc reo lên ở mỗi trang giấy…” và khi Quách Tấn cho ra tiếp “Mùa cổ điển” năm 1941, thì sự đón tiếp nồng nhiệt trở lại của một số độc giả, lâu nay chỉ quen tìm đến với Thơ Mới, đã chia sẻ với Quách Tấn niềm vui khi thực hiện được tâm nguyện của mình. Hơn thế, chính Quách Tấn cũng không ngờ “Mùa cổ điển” đã đặt một dấu chấm hết cho mối xung đột Mới – Cũ diễn ra hàng chục năm trên thi đàn. Trong lời tựa “Mùa cổ điển”, Chế Lan Viên đã hồ hởi kết luận: “Tập Mùa cổ điển bé bỏng, nhưng quá đầy đủ, trước hết đã giải cho ta một mối lầm ác nghiệt, là phân chia bờ cõi thơ bằng hai chữ Mới – Cũ chẳng có ý nghĩa gì”.
Có thể thấy, hơn nửa thế kỷ qua đi, những nhận xét về thơ Quách Tấn vẫn còn nguyên giá trị, nhưng sự vắng bóng của những công trình nghiên cứu đầy đặn về một tác giả có tâm huyết với thơ Luật như ông, quả là đáng tiếc. Thơ Quách Tấn không những nhiều về số lượng, phong phú về nội dung, đề tài mà nghệ thuật cũng đạt tới một trình độ điêu luyện. Tất nhiên cái điêu luyện muốn nói tới ở đây, không chỉ bao gồm sự dùng câu đặt chữ, sự dụng công lựa chọn những ngôn từ mĩ lệ, mà đằng sau đội quân Việt ngữ, được chau chuốt kỹ càng và sắp xếp ngay ngắn ấy, là cả một thế giới huyền diệu, với đầy màu sắc âm thanh và những đường nét thật hài hòa uyển chuyển.
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng
(Đêm thu nghe quạ kêu).
Đọc những câu thơ đẹp, u ẩn và trang nhã đến thế, khó ai có thể phủ nhận được cái tài làm thơ Luật của tác giả. Rõ là tả nỗi buồn, hay chính xác hơn là tả mối sầu, nhưng lại bắt đầu bằng một không gian xa mơ, huyền ảo, vừa “hư” vừa “viễn”. Và người đọc còn chưa hết ngỡ ngàng trước vẻ đẹp như trong mộng của bến Phong Kiều, sông Xích Bích, đã lập tức bị lay tỉnh bởi một dòng tâm tưởng khác, còn mạnh mẽ hơn, đó là mối sầu. Thì ra ở đây, cảnh chỉ là những nét phác thanh thoáng mà tác giả dựng lên để gây ấn tượng, còn mối sầu mới là cái ông muốn tả trực tiếp, mới thành hình, thành khối và vô vọng rơi xuống lòng giếng lạnh. Mở ra một không gian rộng (trời, bến, sông..) nhưng khép lại một không gian hẹp (lòng giếng), câu thơ gây cảm giác cô đơn, hoang mang đến cực độ. Có lẽ gợi cảnh để tả tình là một trong những hứng thú sở trường của Quách Tấn. Dường như ông không bao giờ kỳ công, khắc họa một chi tiết nào cho thật giống với cảnh vật, mà chỉ cố ý tạo nên một bối cảnh, để từ bối cảnh đó, ngòi bút thần tình của ông bắt đầu đặc tả cái tâm của người và cảnh.
Vườn thu óng ả nét thùy dương
Đưa nhẹ đêm theo cánh hải đường
Lóng lánh rẻo vàng gieo bến nguyệt
Phất phơ tơ nhện tủa ngàn sương
Chim hồi hộp mộng cơn mưa lá
Cúc vẩn vơ hồn ngọn gió hương…
(Đêm xuân)
Mới đọc thì thấy rất nhiều chi tiết, nhưng ngẫm kỹ đó là những chi tiết rất khó xác định (nét thùy dương, cánh hải đường, rẻo vàng, bến nguyệt, tơ nhện…). Thật ra ông muốn tả cái đẹp của một đêm mùa thu với những hoa lá, trăng, nước, gió, hơi sương… nhưng lại không tả trực tiếp chúng mà chỉ phác họa những liên tưởng về sự giao hòa mềm mại giữa trăng và nước “rẻo vàng gieo bến nguyệt”, giữa hương hoa và gió “Cúc vẩn vơ hồn ngọn gió hương”. Cái cách luôn luôn tả cảnh ở trong lòng mà không tả cảnh ở trước mắt khiến thơ Quách Tấn u ẩn và thanh tĩnh đến kỳ lạ. Chính tác giả “thi nhân Việt Nam” đã nhận thấy điều này khi đọc thơ ông “Một thứ im lặng dày đặc. Trong ấy có muôn vàn thứ tiếng ta không nghe… Ở đây người ta nói rất khẽ, bước rất êm… Một sức mạnh vô hình, rất mềm mại nhưng rất chắc chắn nặng đè lên hết thảy”.
Và rất nhiều bạn đọc cũng ngạc nhiên không hiểu, Quách Tấn đã dùng sự tưởng tượng nào, để tạo ra trong thơ mình một thế giới hoàn toàn bình yên đến thế. Trong khi Chế Lan Viên băn khoăn: “Ai ngờ rằng cái thế kỷ hai mươi nhộn nhịp với những thi sĩ dâm loạn, điên cuồng, gian trá, độc ác của nó, lại còn giữ nguyên vẹn đâu đây cả một bầu không khí Tống Đường…”. Đúng là Quách Tấn đã lặng lẽ dùng toàn bộ nhãn lực và trái tim đa cảm của mình, để soi chiếu cảnh vật và phiêu du cùng với trời mây non nước trong một cõi yên tĩnh nhất. Hình như thói quen luôn muốn được một mình với:
“Non cao gió thổi thơ đầy túi
Hồ rộng trăng loe, rượu nặng thuyền”
(Phong cảnh Đà Lạt)
đã tạo cho Quách Tấn cảm giác thư thái để thấy:
“Muôn điệu tơ lòng run se sẽ
Nửa vời sóng nhạc dợn lâng lâng”.
(Đêm tình)
Đúng là, cái quyền được run rẩy trước tạo vật không phải của riêng ai, nhưng trong thế giới vô cùng vô tận mà mọi sự đều có đời sống riêng của nó, mỗi người dường như phải tự nung chảy cảm xúc của mình, mới mong hòa tan Tình – Cảnh, để có thể chớp lấy những giây phút quý giá vô ngần. Và Quách Tấn đã hơn một lần làm được điều đó:
“Trời đất tan ra thành thủy tinh
Một bàn tay ngọc đẫm hương trinh
Âm thầm mơn trớn bên đôi má
Hơi mát đê mê chạy khắp mình.
(Đà Lạt đêm sương)
Ý tưởng miêu tả Tình – Cảnh trong mối giao hòa giữa Trời – Đất – Người ở cái thế vừa hư vừa thực, vừa động vừa tĩnh ấy, khiến Quách Tấn tạo nên trong thơ ông một vẻ đẹp huyền ảo, tựa như người họa sĩ tạo nên những mảng nhòe nghệ thuật, trong các bức tranh thủy mặc của mình. Ông còn liệt vào cảm giác hạnh phúc, gần như hết thảy những biểu hiện của sự sống. Nhiều sự việc muôn đời chẳng làm ai ngạc nhiên, với ông lại như lần đầu bắt gặp:
“Trăng ghẹo non sông nằm thổn thức
Gió ru trời đất ngủ mơ màng…”
(Canh khuya tỉnh giấc)
Hay:
“Cung quế im lìm mây ấp nguyệt
Song đào âu yếm gió hôn hoa…”
(Bức cảnh trời khuya)
thì cũng sẽ nhận thấy, trong thơ Quách Tấn, hiện tượng người hóa cảnh, cảnh hóa người không phải hiếm. Thậm trí những hình ảnh như: “gió say lảo đảo”, “trăng ghẹo non sông”, “liễu soi mày”, “mây rẽ tóc”, “chim hồi hộp”, “cúc vẩn vơ”… xuất hiện khá nhiều trong thơ ông. Và điều này đúng ra rất xa lạ với bút pháp thơ cổ. Bởi thơ cổ miêu tả cảnh vật thường gắn với một ý nghĩa tuyệt đối trong lành, thanh cao, khác xa cuộc sống phàm tục.
Cũng là tả cảnh một đêm trăng, nhưng Nguyễn Trãi không chỉ cho thấy vẻ đẹp tĩnh lặng của bóng trăng, nhành mai, ngọn trúc, lòng suối,… mà còn cho thấy cái tư thế thanh cao của người thưởng cảnh và cách thưởng cũng thật ung dung tĩnh tại. “Quét trúc bước qua lòng suối (Ngôn chí XVIII) Nếu đem so sánh những câu thơ của Nguyễn Trãi với những câu thơ của Quách Tấn như: “Phấn sương điểm má đào non nõn (Đêm thu) Hoặc: “Hồn hoa chợp mộng thơm hồn gió (Đêm tình) thì thấy cả từ ngữ, hơi thở đều đã khác nhau rất nhiều. Đành rằng nếu đem chút băn khoăn rạo rực trong thơ Quách Tấn, mà so sánh với cái náo nức, xôn xao của Xuân Diệu, cái mơ màng của Lưu Trọng Lư, hay nỗi ám ảnh tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử, thì vẫn thấy một khoảng cách rất xa, giữa Quách Tấn và các nhà thơ Mới. Nhưng đọc toàn bộ thơ Đường luật Quách Tấn, không thể phủ nhận rằng, trong khá nhiều bài, Quách Tấn đã không giấu nổi những cảm nhận tinh tế của mình, trước sự chuyển biến tốc độ của thời gian, sự mở rộng của không gian tự do, khoáng đạt và nhịp độ gấp gáp của lối sống hiện đại.
(Mộng thấy Hàn Mặc Tử) Rõ ràng thơ Quách Tấn đã không còn hoàn toàn Cũ nữa. Thơ ông đã đạt đến độ hài hòa của một sự giao thoa nhuần nhụy, giữa những yếu tố “vừa lạ vừa quen”, của cái gọi là thơ Cũ và thơ Mới.
Vì thế chẳng có gì ngạc nhiên, với một Quách Tấn, khi thì nhẹ nhàng qua những nét vẽ lặng lẽ như tranh, càng đọc càng thấy yên tĩnh vô cùng, khi lại băn khoăn bối rối, như không kìm nén nổi cảm xúc, để có thể hất tung mọi quy ước ràng buộc. Điều này cũng giống một số nhà Thơ mới như: Hàn Mặc Tử, Vũ Đình Liên, Huy Cận, Bích Khê, J.Ieiba… từ địa hạt thơ Cũ, bước hẳn sang địa hạt thơ Mới, nhiều khi vẫn không dứt nổi, với nhịp điệu hồn cốt của Đường thi. Kết luận Như vậy, chuyện bình cũ rượu mới, hay tính truyền thống và cách tân trong văn học nghệ thuật nói chung rất phức tạp. Mặc dù bản chất của nghệ thuật là cách tân và lịch sử của văn học là lịch sử cách tân nghệ thuật. Nhưng cách tân không có nghĩa là đoạn tuyệt với truyền thống. Vì thế quá trình cách tân nghệ thuật chính là quá trình văn học thực hiện, một cuộc tiếp giao chuyển đổi, giữa cái Cũ và cái Mới, trong đó cái Mới không dễ dàng chiếm chỗ, cái Cũ không dễ dàng rời bỏ. Thơ Đường luật Quách Tấn, đúng là đã bộc lộ tính tiếp biến phức tạp ấy. Và chính sự pha trộn này, đã làm cho thơ ông mang màu sắc tự nhiên, tươi sáng, mà bớt vẻ cầu kỳ khó hiểu. Có lẽ đây cũng là một trong những đặc điểm không phải của riêng Quách Tấn mà là của hầu hết những sáng tác thơ Đường luật nửa đầu thế kỷ XX. |