Quá hải Vân quan của Trần Bích San

 

 

 

 

 

 

 

過海雲關                         Qúa Hải Vân Quan

Nguyên tác: Trần Bích San

原作陳壁珊                                        

 

上海雲臺                    Tam  niên  tam thướng Hải Vân Đài

壹鳥身輕獨往回                   Nhất điểu thân khinh độc vãng hồi

草樹半空低日月                   Thảo thụ bán không đê nhật nguyệt

乾坤隻眼小塵埃                  Càn khôn chích nhãn tiểu trần ai

文非山水無奇氣                   Văn phi sơn thủy vô kỳ khí

人不風霜未老才                  Nhân bất phong sương vị lão tài

莫道秦關征路險                  Mạc đạo Tần quan chinh lộ hiểm

馬頭花盡帶煙開                Mã đầu hoa tận đái yên khai.

.

Dịch nghĩa: Qua đèo Hải Vân

Nguyên tác: Trần Bích San

 

Ba năm ba lần lên đài Hải Vân.

Con chim thân nhẹ một mình qua lại.

Cây cỏ ở giữa tầng không mặt trời mặt trăng ở dưới thấp.

Cả đất trời thu vào con mắt, cõi trần coi nhỏ không.

Văn không có sông núi thì không phải là bài văn hay.

Người chưa dãi dầu sương gió thì người chưa già dặn.

Đừng tưởng nước Tần mới có đường hiểm trở.

(Ở đây) nơi đầu ngựa, hoa đều đội khói mù mà nở.

 

Dịch thơ:

Qua đèo Hải Vân

 

Ba năm đều đến Hải Vân đèo

Chim nhẹ thân hình chấp chới cao

Cây cỏ tầng không trăng dưới thấp

Đất trời tầm mắt cõi trần heo

Văn không sơn thủy chưa hàm súc

Người ít phong sương khó chống chèo

Đừng tưởng nước Tần đường hiểm trở

Ở đây đầu ngựa, khói, hoa treo.

 

Với cách viết phóng khoáng, không quá câu lệ vào câu chữ mà diễn tả được nội tâm của chính TG, trong bối cảnh xã hội đang nằm ở thời điểm suy vi. Đặc biệt TG dùng ngôn ngữ thơ Đường luật miêu tả cảnh tình non nước lúc bấy giờ, trong đó ông khéo ví mình như con chim lẻ đàn trước sự rối ren của xã tắc. Đồng thời ông cũng nhắc nhở thiên hạ rằng: Viết văn mà không có non sông thì chưa phải là bài văn hay, con người chưa trải qua sương gió thì chưa phải là con người già dặn.

Đó là nghĩa thực trong cặp luận, ngoài ý đó ra đằng sau cặp luận còn hàm chứa những vấn đề chúng ta cần suy ngẫm:

Ta thấy câu 5, nếu chỉ viết hình sông, bóng núi để câu câu thơ mượt mà, bóng bẩy uyển chuyển thôi thì câu thơ đã quá chuẩn rồi, nhưng không, ở đây TG đã lấy cảnh ngụ tình mà ẩn chứa suy tư của mình vào câu chữ để câu thơ còn chứa chất nỗi đau dân tộc. Nếu xã tắc không còn, làm gì có hiền tài, làm gì còn nguyên khí quốc gia, ở cuối câu 5 có hai từ KỲ KHÍ, kỳ khí có nhiều nghĩa, nhưng ở đây ta nên hiểu chữ Kỳ Khí như đã nói ở trên.

Ta xem tiếp câu 6, TG đã đem triết lý rất đời thường để chúng ta hiểu trong cuộc đời này là: Nếu chưa từng chịu gian lao thì không thể chống đỡ với những khó khăn tiếp tới. Ngoài ý này TG muốn nhắn nhủ tới nhiều tầng lớp nhân sĩ, đồng thời cũng ngầm ám chỉ vào một số quan chức đương thời lúc đó rằng: Chỉ quen sống sa hoa đài các, thì làm sao chịu nổi với những biến cố thăng trầm của non sông đất nước.

Qua một vài ý luận giải cặp luận bàì ( Qúa Hải Vân Quan) của Tuần phủ Trần Bích San mới thấy các bậc Tổ tiên chúng ta đã để lại cho chúng ta những giá trị về văn hóa nghệ thuật, triết lý nhân sinh, tình yêu quê hương đất nước, khí phách người Việt  Nam chúng ta.

Năm Đinh Sửu (1877), ông được thăng Tham tri bộ Lễ, làm Chánh sứ sang Pháp. Chưa kịp đi, ông đột ngột mất ở Huế.

Sau khi mất, Trần Bích San được thăng hàm Tham Tri.

Trần Bích San là người có chí hướng, muốn đem tài năng ra giúp dân, giúp nước. Ông từng điều trần vạch rõ thói quan lại tham nhũng lúc ấy. Ông cũng đã đề xuất nhiều kiến nghị cải tổ giáo dục, tuyển chọn nhân tài, phòng thủ đất nước.

 

Sưu tầm & dịch thuật

                                                                            Qúy Mỳ Nam Định