NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ GIÁ TRỊ TRONG TẬP KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ THƠ ĐƯỜNG LUẬT THỜI NHÀ LÊ

 

NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ GIÁ TRỊ TRONG TẬP KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ THƠ ĐƯỜNG LUẬT THỜI NHÀ LÊ

 

 Nhà thơ, TS. Lê Cảnh Nhạc

Chủ tịch Hội đồng văn học dịch, Phó Chủ  tịch Hội Nhà văn Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội đồng Họ Lê Việt Nam

 

          Thơ Đường luật thời nhà Lê – mấy nét chấm phá” – NXB Hội Nhà văn, 2023 – là tập Kỷ yếu đồ sộ của Trung tâm Minh Triết thơ Đường Việt Nam, Viện Nghiên cứu Minh Triết. Cuốn sách dày 605 trang gồm 50 bài viết của nhiều nhà nghiên cứu tham gia hội thảo, đã cho thấy đây không phải là “mấy nét chấm phá”, mà thực sự là những công trình khoa học đầy trí tuệ uyên bác, rất bài bản, công phu, có giá trị.

          Sự sắp xếp thứ tự và nội dung từ Lời mở, Dẫn nhập, đến 2 phần chính và phần Kết luận của tập Kỷ yếu đã đi từ tầm vĩ mô đến vi mô, tạo ra bức tranh vừa hoành tráng vừa có chiều sâu nghiên cứu về thơ Đường luật triều Lê. Trong Lời mở, Ban tuyển chọn cũng đã cho biết, tập Kỷ yếu không giới thiệu toàn bộ mà chỉ chọn lọc đăng tải những bài tham luận tiêu biểu, không đăng tải những bài viết trùng lặp về nội dung và nghệ thuật, những bài viết xa với chủ đề của cuộc Hội thảo, cho thấy sự thận trọng của Ban Tuyển chọn và càng khẳng định thêm chất lượng của tập Kỷ yếu.

          Bài Dẫn nhập “Mấy cảm nghĩ về thơ Đường luật thời Lê”  (của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, PGS Trần Thị Đăng Thanh), cùng bài đầu Phần thứ Nhất “Tác giả và tác phẩm thơ Đường thời nhà Lê” (nhà nghiên cứu Trần Văn Đình) đã cho ta một tầm nhìn khái quát, tổng thể về thơ Đường luật thời nhà Lê. Các tác giả đã đi từ bối cảnh lịch sử 350 năm thời Lê sơ và Lê Trung hưng để thấy cơ sở xã hội, nền tảng tư tưởng triết học của sự đổi mới, phát triển thơ Đường luật thời Lê so với thời Lý Trần. Đạo Việt – Nho, đạo lý nhân nghĩa, “chủ nghĩa an dân” … được coi là “Mạch nước ngầm phong thủy của văn hóa Đại Việt thời nhà Lê”. Sự phát triển, đổi mới, sáng tạo của thơ chữ Hán Đường luật và đặc biệt là thơ Nôm Đường luật đã được khai sinh từ cơ sở xã hội, tư tưởng triết học sâu xa, được gọi là “một bản năng, một tiềm thức, một hồn Việt đang trỗi dậy”. Các tác giả đã đi đến những nhận định khái quát, quan trọng: Nhìn chung thơ Đời Lê nội dung và đề tài mở rộng, phong phú. Diện mạo của sinh hoạt tinh thần hết sức đa dạng.

          Những bài tham luận Tổng quan về thơ Đường luật thời Lê đã có những phân tích và nhận xét thấu đáo, toàn diện cả về nội dung và nghệ thuật. Các bài “Thơ Đường luật thời nhà Lê: Quan điểm nghệ thuật và thành tựu văn học” (nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hưng), “Tổng quan về văn học: Đặc điểm diện mạo thơ Nôm Đường luật thời nhà Lê (Ths Nguyễn Thị Thủy), “Thơ Đường luật Việt Nam thời Hậu Lê (nhà thơ Trần Quang Tuyến), “Thơ Đường luật thời Lê Sơ – nhịp cầu nối Trung đại tới hiện đại (nhà báo Đức Thọ)… đều có chung nhận xét, đánh giá cao sự phong phú về nội dung, sự đổi mới, phát triển về nghệ thuật thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm thời Lê.

         Tôi rất đồng tình và tâm đắc với nhận xét khái quát của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hưng: “Thể thơ Đường luật Việt Nam đã đạt thành chuyển biến mới, một bước tiến vượt bậc trong quá trình phát triển với các đề tài sáng tác và số lượng sáng tác mới bằng nhiều thể loại… Quan điểm văn nghệ, nghệ thuật nhìn từ phía Lý – Trần, với tinh thần yêu nước, một ý chí tự cường, tư duy tình cảm, tư tưởng nghệ thuật và tài nghệ bút pháp trên mọi bút pháp truyền thống…”, “Thơ Đường luật Việt Nam đã được cách điệu thể loại, phổ biến rộng rãi, phát triển cực thịnh trong văn học – văn chương thời kỳ THỊNH LÊ”.

          Mặc dù Đường luật là thể thơ có nguồn gốc từ Trung Quốc, được truyền sang Việt Nam, nhưng ngay từ thời Lý – Trần và nhất là đến đến thời Lê, nội dung thơ đã bao trùm những hình ảnh, sự kiện về đất nước, con người Việt Nam, mang hồn cốt, tư tưởng, tình cảm Việt Nam. Điều này đã được các tác giả đề cập trong nhiều bài tham luận. Nghệ thuật thơ Đường luật cả chữ Hán cũng như chữ Nôm đều không còn sao chép cứng nhắc niêm luật thơ Đường mà đã có những đổi mới sáng tạo rõ nét. Các tác giả đều đánh giá cao sự thay đổi về số chữ trong câu: Thơ thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, nhưng có đến nghìn bài Đường luật thời Lê lại có câu lục ngôn, nhất ngôn. Biến đổi số chữ nhưng niêm luật vẫn đảm bảo. Người mở đường đổi mới sáng tạo đó là Nguyễn Trãi, đến Hồ Xuân Hương vẫn tiếp tục, cả hai đều là danh nhân văn hóa thế giới. Sự cải cách luật bằng trắc trong thơ Đường “Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”  (trong mỗi câu, các chữ thứ 1, 3, 5 có thể tùy ý, các chữ 2,4,6  bắt buộc phải đúng quy tắc) từ Hàn Thuyên thời Trần đã được phổ biển rộng rãi ở thời Lê, đến nay vẫn được áp dụng. Phong trào thơ xướng họa sôi nổi thời vua Lê Thánh Tông được nhà thơ Trần Quang Tuyến đánh giá là “hiện tượng văn hóa độc đáo có một không hai trong lịch sử văn hóa Việt Nam”, cho đến ngày nay vẫn còn tiếp nối, phát triển.

          PGS, TS Nguyễn Thanh Tâm đã đánh giá rất cao và có kết luận rất xác đáng về thơ Nôm Đường luật thời Lê, coi đây là một hiện tượng sáng tạo độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam. Thơ Nôm Đường luật sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, thể loại ngày càng phong phú, xây dựng hình tượng nghệ thuật từ nhân dân và dân tộc hóa, được khởi đầu từ triều đại Lý – Trần phát triển qua thời Lê Mạc và từ đó tỏa sáng trong các thế kỷ sau.

          Về những tác giả, tác phẩm tiêu biểu, nhà nghiên cứu Trần Văn Đình đã nêu bật tên tuổi cùng tác phẩm của 4 nhà thơ lớn: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương. Nhiều nhà nghiên cứu có bài trong tập Kỷ yếu cũng đều thống nhất với ý kiến đó. Tập Kỷ yếu có đến 9 bài tham luận chuyên nghiên cứu sâu về các tác phẩm thơ Đường luật của Nguyễn Trãi, trong đó có 4 bài chuyên nghiên cứu về thơ Nôm của ông; có 11 bài, trong đó 5 bài đi sâu nghiên cứu thơ Nôm vua Lê Thánh Tông.  Sự nghiệp và tác phẩm thơ chữ Hán của những nhà thơ lớn khác như Phùng Khắc Khoan, Phan Huy Ích, Lê Quý Đôn, Lê Thiếu Đĩnh, Đinh Nho Hoàn, Hà Nhâm Đại, Nguyễn Hàng, thiền sư Hương Hải; thơ chữ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đặng Minh Khiêm, của chúa Trịnh Cương… đã có những tham luận nghiên cứu riêng, có tham luận chỉ đi sâu phân tích 1 bài thơ đặc sắc. Đặc biệt, thơ Nôm Đường luật của nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã 2 bài chuyên sâu phân tích với nhiều phát hiện mới mẻ, lý thú.

          Không có gì đáng ngạc nhiên khi sự nghiệp và những tác phẩm thơ chữ Hán, chữ Nôm của Nguyễn Trãi lại được được nhắc đến nhiều, nổi bật trong các bài phân tích tổng hợp về thơ Đường luật thời Lê và trong 9 bài tham luận riêng về thơ Nguyễn Trãi của Kỷ yếu hội thảo. 105 bài thơ chữ Hán trong Ức Trai thi tập và 254 bài thơ chữ Nôm trong Quốc âm thi tập tuy chưa phải là tất cả tác phẩm của ông, nhưng cũng đủ để các nhà nghiên cứu tôn vinh cả về nội dung tư tưởng và trình độ nghệ thuật. PGS Trần Thị Băng Thanh đã nhận xét Ức Trai thi tập đã đánh dấu bước chuyển chặng đường thơ chữ Hán từ thời Trần sang thời Lê với sự kế thừa và đổi mới. Nhà văn Đặng Việt Thủy đã phân tích hàng loạt bài thơ Nguyễn Trãi tả cảnh thiên nhiên kỳ vĩ, độc đáo, phản ánh lòng yêu nước, tự hào dân tộc và triết lý nhân sinh sâu sắc. Thạc sĩ Bùi Chí Thành chỉ đi sâu bình luận bài thơ chữ Hán “Bạch Đằng hải khẩu”; PGS Nguyễn Bích Hải chỉ phân tích bài  thơ Nôm “Cây chuối”; nhà thơ Mai Hoàng Khải chỉ phân tích bài thơ Nôm “Cây mộc cận”, cũng đã cho thấy sự chiều sâu nghiên cứu của các bài tham luận về thơ Nguyễn Trãi.

          Cũng thật thỏa đáng khi Kỷ yếu đã dành 11 bài chuyên nghiên cứu về thơ Đường luật chữ Hán và chữ Nôm của Lê Thánh Tông. Thời Hồng Đức thịnh trị có nhiều thành tựu rực rỡ trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật. Lê Thánh Tông là nguyên soái Hội Tao Đàn do ông lập ra. PGS, TS Đỗ Lai Thúy đã nhận xét “Sự nghiệp sáng tác của Lê Thánh Tông rất khớp với những chuẩn của văn học Nho giáo, với tính chất chính thống”. Tập thơ Nôm “Hồng Đức quốc âm thi tập” là một tập thơ vịnh, vịnh sử, vịnh cảnh nhưng đặc sắc nhất là thơ vịnh vật. Nhiều vật tầm thường như cái rế, cái nón, thằng bù nhìn…đã được nhà vua “thăng hoa” thành những vật phi thường.  “Hồng Đức quốc âm thi tập” được Thạc sĩ Nguyễn Công Thanh Dung, PGS, TS Nguyễn Công Lý, nhà thơ Thạch Châu đánh giá là “một cột mốc lớn trong tiến trình văn học tiếng Việt”, “bước phát triển mới của ngôn ngữ văn học dân tộc”. Những bài chuyên luận khác như “Vua Lê Thánh Tông và thơ về biển đảo” (TS Nguyễn Lê Hoài Anh), “Lê Thánh Tông với Hội Tao đàn” (Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thuần), “Lê Thánh Tông và chùm thơ Vịnh năm canh” (Thạc sĩ Nguyễn Thị Thiện)… đều có những góc nhìn sâu sắc, độc đáo về thơ Lê Thánh Tông.

          Nguyễn Du là thi hào danh nhân văn hóa thế giới, nhưng trong Kỷ yếu chỉ có 2 bài nghiên cứu của GS, Nhà giáo ND Nguyễn Đình Chú liên quan đến bài thơ chữ Hán “Độc Tiểu Thanh ký”. Điều này cũng dễ hiểu vì những tác phẩm của Nguyễn Du chủ yếu được sáng tác vào thời nhà Nguyễn, trong đó có Truyện Kiều.

Đương nhiên, đi đôi với những thành công lớn của tập Kỷ yếu hội thảo,  một số bài tham luận đăng trong Kỷ yếu cũng không tránh khỏi khiếm khuyết như vẫn còn trùng lặp ít nhiều về nội dung, nghệ thuật, xa với chủ đề của cuộc Hội thảo (ví dụ tỷ lệ của phần nói về thân thế sự nghiệp nhà thơ quá dài, nói về tác phẩm lại ít, trích dẫn thơ hơi nhiều không kèm với phân tích, bình luận…).

Một khiếm khuyết khác nữa của Kỷ yếu là chưa giới thiệu được một số tác giả thơ Đường luật tài giỏi nổi tiếng, tiêu biểu thời Lê như Thái Thuận (Tiến sĩ, phó nguyên súy Hội Tao Đàn). Nhà thơ Quách Tấn từng nhận xét: “Thơ Lữ Đường (Thái Thuận) đủ loại: Thơ cảnh, thơ tình, thơ vịnh sử, thơ vịnh vật, thơ hoài cổ, thơ tức sự… Loại nào cũng nhã trí tinh công. Về thơ cảnh, từ Lý Trần đến Trịnh Nguyễn, phẩm cũng như lượng, tôi chưa gặp nhà thơ nào có thể vượt qua Lữ Đường”. Thơ Đường luật rất hay của những vị khoa bảng khác thời Lê như Ngô Thì Sĩ, Hoàng Đức Lương, Đặng Minh Bích… cũng rất đáng để nghiên cứu giới thiệu trong Kỷ yếu hội thảo./.