NHỚ CHA . Bài viết của TS Tôn Thất Minh Tâm

 

  NHỚ CHA 

Nhân dịp Hội thảo khoa học “Thơ Đường thời nhà Nguyễn” ngày 3-8-2025 tại Học Viện Chính trị quốc gia HCM, tôi đã phát bài tham luận: “Vương triều Nguyễn thời thịnh trị – một dòng thơ minh triết nhân sinh” chứa chan tình thương nhớ Người cha kính yêu…

         Cha tôi- Nhà báo, nhà ngoại giao Nguyễn Minh Vỹ (tên khai sinh là Tôn Thất Vỹ) sinh ngày 17-7-1914 trong một gia đình Hoàng tộc triều Nguyễn – hệ nhất Tiền biên Nguyễn Phúc tộc ở Huế.

                                    

Ảnh 1 : Nhà báo, nhà ngoại giao Nguyễn Minh Vỹ (17/7/1914)

Năm 1928 khi đang học tại trường Cao đẳng Vinh, cha sớm giác ngộ cách mạng, tham gia phong trào yêu nước đòi quyền bình đẳng và tự do cho nhân dân, bị Hội đồng giám thị chuyển đổi về trường Quốc học Quy Nhơn- Bình Định.

Năm 1929 Cha lại tiếp tục tham gia hoạt động “Sinh hội Đỏ” và trực tiếp chỉ đạo phong trào học sinh yêu nước tại trường Quốc học Quy Nhơn .

Năm 1931, khi vừa tròn 17 tuổi, Cha gia nhập “Thanh niên Cộng sản Đoàn”. Ngày 19-7-1931, trong lúc đang rải truyền đơn tuyên truyền cách mạng thì Cha bị mật thám theo dõi và bắt giam. Chính quyền thực dân liền đưa Cha ra “Tòa án Nam triều” kết tội: “Hoàng gia đi làm cộng sản”, xử án bảy năm tù khổ sai, tước tịch, cải tòng mẫu tánh.

          Sau khi tuyên án xong, Cha liền đứng bật lên ứng khẩu:

“Nghe án tuyên xong thấy tức cười,

Tội gì mà xử bẩy năm trời ?

Công lao cách mạng chưa toàn vẹn,

Thân thế Hoàng gia đã tả tơi…

Đập đá mấy năm lòng quyết vững,

Giam cầm có bạn dạ càng vui,

Cải tùng mẫu tánh thì cứ cải,

Tôn Thất hay Trương… cũng một người ” (Trương là họ mẹ)

Ông nội tôi đang làm quan triều đình ở Huế biết tin Cha tôi bị tù đầy liền tìm vào Quy Nhơn thăm  hỏi… Ông nội và Cha gặp nhau ôm chầm thương xót, Cha nhắn nhủ Ông nội:

“Thương cho cha lại phải bận vì con,

Cha mẹ luôn cùng miếng ngọt ngon

Anh hùng hào kiệt đời không mấy,

Yêu nước thương nòi tiếng vẫn còn…”

 Năm 1943 sau khi mãn án khổ sai, Cha lại tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia soạn báo cách mạng: “Tiếng dân”, “Nhành lúa”, “Búa liềm” ở Liên khu V và diễn thuyết tuyên truyền cách mạng trên tuyến đường sắt Huế -Nha trang, phân phát báo cách mạng “Việt Nam“ và “Hỏa xa cứu quốc“ khắp một vùng miền Nam Trung bộ.

Từ năm 1943-1945, Cha là ủy viên Tỉnh ủy tỉnh Bình Định, sinh hoạt văn thơ cùng “Nhóm Thái Dương Văn Đoàn” ở Quy Nhơn.

          Cách mạng tháng Tám bùng nổ ngày 19/8/1945, Cha tham gia lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền tại tỉnh Khánh Hoà thành công ngày 23-8-1945, được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến tỉnh Khánh Hoà. Thời gian này, Cha khôi phục lại danh xưng là Chủ tịch Tôn Thất Vỹ, đã cùng với các cán bộ chỉ huy quân sự nổi tiếng như Phạm Kiệt, Thế Lâm, Lư Giang, Hà Văn Lâu, Hà Vi Tùng… lãnh đạo quân dân toàn tỉnh, tổ chức kháng chiến suốt 101 ngày đêm từ 23-10-1945 đến 2-2-1946 đánh chặn quân Pháp từ Nam bộ tiến ra Nha Trang, kìm chân quân giặc tại chỗ để tạo điều kiện cho Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ở Hà Nội có đủ thời gian di chuyển lên chiến khu Việt bắc an toàn. Khi đoàn thị sát chiến trường của Chính phủ lâm thời do Bộ trưởng Lê Văn Hiến và Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp vào Nha Trang mang theo thư khen của Hồ Chủ tịch vào cho quân dân miền Nam.

Bức thư có đoạn viết :“Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa rất khen ngợi chiến sĩ các mặt trận miền Nam, đặc biệt là chiến sĩ ở Nha Trang và Trà Vinh đã làm gương anh dũng cho toàn quốc. Tổ quốc biết ơn các bạn. Toàn thể đồng bào noi gương các bạn”.     

Tại cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Công hoà ngày 6-1-1946, Cha được bầu là Đại biểu Quốc hội khóa I -tỉnh Khánh Hoà 

                                                nh 2 : Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì buổi lễ ra mắt

Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khoá I ngày 6-1-1946 tại Nhà hát lớn Hà Nội

(Đại biểu Quốc hội Tôn Thất Vỹ (tức Nguyễn Minh Vỹ có dấu hình ngôi sao) tham dự sự kiện

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, Ủy ban Hành chính miền Nam Trung Bộ đã ban hành Nghị định “527/MN-TOC” ngày 1/10/1954 đổi tên cho Cha- Đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Công hoà khóa I: “Tôn Thất Vỹ” đổi thành “Nguyễn Minh Vỹ” (với ý nghĩa: “Nguyễn” là dòng họ Nguyễn Phúc tộc, “Minh” là noi theo lãnh tụ Hồ Chí Minh, “Vỹ” là húy danh khai sinh của gia đình).     

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 được ký kết, Cha được giao nhiệm vụ làm Chủ tịch Hội đồng Tập kết Liên khu V kiêm Chỉ huy trưởng Quân cảng Quy Nhơn thi hành các điều khoản của Hiệp định trong 300 ngày đêm tập kết quân dân miền Nam ra Bắc.

          Ra miền Bắc tháng 10-1954, Cha công tác tại Quốc hội khoá I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – thuộc Tiểu ban “Miền Nam và đấu tranh thống nhất nước nhà”. Cha vẫn lưu giữ tấm thẻ đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do đích danh Bác Hồ ký :

“Chủ tịch Chính phủ lâm thời chứng nhận:

Ông Tôn Thất Vỹ là đại biểu tỉnh Khánh Hoà tại toàn quốc đại biểu quốc hội”

Hà Nội ngày 1-3-1946

Chủ tịch  Chính phủ lâm thời  Hồ Chí Minh (đã ký)

             Giai đoạn 1955 -1965, Cha liên tục công tác tuyên truyền đấu tranh giải phóng miền Nam- Thống nhất đất nước- góp phần chiến thắng trên chiến trường đánh Mỹ và tay sai. Năm 1966 Cha được bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng Tổng cục Thông tin kiêm Phó trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Đảng- phụ trách tuyên truyền đấu tranh giải phóng miền Nam- Thống nhất đất nước.

Cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968 giành thắng lợi to lớn, buộc Tổng thống Mỹ Johnson phải tuyên bố hạn chế ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra và chấp nhận đàm phán ngoại giao về hòa bình ở Việt Nam. Cha được Đảng và Bác Hồ giao trọng trách Cố vấn kiêm Phó trưởng đoàn đàm phán nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại hội nghị Paris từ năm 1968 đến 1973. Ngày 3/5/1968 Đoàn lên đường dự Hội nghị Paris, Bác Hồ đã trực tiếp giao nhiệm vụ toàn đoàn: “Các chú sang Pháp lần này thuận lợi hơn Bác sang Pháp năm 1946 nhiều. Đấu trang ở Pari mà tố đế quốc Mỹ thì thuận lắm… Nhưng phải luôn nhớ rằng: Mỹ là nước lớn, nhân dân Mỹ yêu chuộng hoà bình và công lý, cho nên phải nói năng cho khôn khéo, giành phần thắng lợi “.

Vốn thông thạo 3 ngoại ngữ: Hán, Anh, Pháp nên Cha đảm nhiệm tác nghiệp truyền thông quốc tế trên mặt trận ngoại giao đầy cam go, phức tạp và kéo dài 5 năm trời. Từ 5-1968 đến 1-1973 Cha thường xuyên tổ chức các cuộc họp báo quốc tế tuyên truyền đường lối và chính sách đối ngoại của phía Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam, phản đối những hành động leo thang chiến tranh phá miền Bắc của đế quốc Mỹ, đặc biệt là chiến dịch dùng B-52 đánh phá miền Bắc cuối năm 1972. Cha thường xuyên vận động Đảng Cộng sản Pháp và Việt kiều yêu nước tại Pháp ủng hộ giúp đỡ phái đoàn tạo điều kiện thuận lợi nhất suốt 5 năm 1968-1973. Cuối cùng, sau 174 phiên họp công khai của Hội nghị bốn bên ở Pa-ri, Hiệp định về “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” đã được ký kết thắng lợi ngày 27-1-1973.   

                 Chính nhờ có Hiệp định Pa ri năm 1973  này mà quân đội Mỹ phải rút hết về nước, quân đội Việt Nam cộng hòa hết chỗ dựa vào Mỹ đã bị đánh tan rã hoàn toàn ngày 30/4/1975, Sài Gòn và miền Nam được giải phóng hoàn toàn, thống nhất đất nước. 

         Tôi nhớ mãi trong chiến dịch tổng tấn công mùa xuân 1975, tôi đang là sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội thì có lệnh tổng động viên: tất cả giảng viên và sinh viên toàn trường nhập ngũ tham gia chiến dịch giải phóng miền Nam. Ngày 19-4-1975 tôi nhận lệnh nhập ngũ tại sân trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ở Thượng Đình Hà Nội, Cha liền đến tận trường động viên tôi xếp bút nghiên lên đường chiến đấu ! Lớp sinh viên chúng tôi lập tức hành quân theo cầu hàng không vào Đà Nẵng, rồi theo xe quân sự thần tốc vào Sài Gòn đúng ngày 1-5-1975.

  Ảnh 6 : Tiểu đoàn sinh viên Đại học Tổng hợp đóng quân tại căn cứ quân sự Mỹ ở Cần Thơ 5-1975

Sài Gòn giải phóng 1975 chưa được bao lâu thì chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra năm 1977, xung đột biên giới phía Bắc căng thẳng năm 1979, cuộc đời quân ngũ gian lao vất vả lại chinh chiến khắp các chiến trường Nam Bắc. Tôi đang đóng quân ở Trà Nóc- Cần Thơ thì Cha đi công tác vào thăm con, lại nghe tin tôi lập công được kết nạp Đảng thì vui lắm… Gặp lại tôi mừng vui, Cha vững tin nắm chặt tay tôi tặng ngay bài thơ :

      “Cha tiễn con đi từ buổi ấy,

Cầm tay nhau biết nói gì hơn,

Một lời hẹn ước sao cho trọn,

Trải mấy năm rồi con lớn khôn.

*

Hôm nay cha gọi con đồng chí,

Chữ ấy sao mà đượm mến thương,

Nghĩa tình sắt son chung lý tưởng,

Vào sinh ra tử một con đường,

*

Nghe lời cha dặn con phấn đấu,

Gian lao vất vả trải muôn nơi,

Mang theo đôi cánh thần tiên ấy,

Con hãy bay đi… tận cuối trời”.

Ngày ra quân trở về trường Đại học Tổng hợp, tôi được sống bên Cha nhiều năm và nhận thấy: Cha luôn nhắc nhớ tới Bác Hồ như một tình cảm cao quý và trách nhiệm thiêng liêng… Có lần Cha vừa đi dự lễ kỷ niệm 30 năm ngày mất của Bác Hồ năm 1999 về là xúc động thốt lên thành thơ: 

“Nói gì cho Bác được vui lòng, 

Yên giấc ngàn thu với núi sông,

Trong lúc đời còn vô số việc,

Nhiều điều đáng nói lắm điều không,

*

Điều ko đáng nói thì sao đây,

Cho sáng lòng ai trong phút giây,

Đen trắng vàng thau không lẫn lộn,

Trọn tình vẹn nghĩa- đến hôm nay”

Cả cuộc đời Cha từ tuổi thanh thiếu niên đến lúc nghỉ hưu đã cống hiến tất cả sức lực và trí tuệ cho Cách mạng và đất nước. Cuộc đời Cha đã gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, với những công lao to lớn trên nhiều mặt trận: chính trị, quân sự, ngoại giao, truyền thông, văn hóa, báo chí… nên Cha đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cao quý và Huân chương Độc lập hạng nhất cùng nhiều Huân Huy chương khác:

.

Ảnh 6 : Huân chương Hồ Chí Minh trao tặng cho nhà báo, nhà ngoại giao

Nguyễn Minh Vỹ  (tức Tôn Thất Vỹ)

          Cha là nhà báo, nhà ngoại giao, nhà truyền thông nên đã đi nhiều, đọc nhiều, viết nhiều, thường xuyên ghi chép nhật ký và làm thơ các thể loại… Chỉ nhân dịp kỷ niệm 40 năm Ngày khởi nghĩa giành chính quyền Nha Trang 19-8-1989, Cha đăng ngay bài thơ “Nha Trang 19-8” trên trang nhất báo Nhân dân Chủ nhật :

”Phố phường tràn ngập biển người,

Hò reo sấm dậy đất trời chuyển lay,

Sao vàng cờ đỏ tung bay,

Phá xiềng nô lệ xây đài tự do,

Việt Nam độc lập cơ đồ,

do ta làm chủ và lo giữ gìn,

Để cho tổ quốc quyết sinh,

Câu thề quyết tử đinh ninh một lời,

Việt Nam tên nước sáng ngời,

Người dân làm chủ đời đời từ nay,

Sử xanh ghi tạc ngày này !”

     … Những ngày cuối đời Cha ngồi viết bài thơ “Cao tuổi hôm nay” vẫn lạc quan yêu đời:

“Xưa rằng thất thập cô lai hy,

Nay thì bát- -cửu- thập kỳ thêm đông,

Xuân sang rực sáng ánh hồng,

Nắng xuân sưởi ấm thêm lòng sắt so,

Mặc cho  đầu bạc răng long,

Vững tin ý chí  theo đường Bác đi,

 Quanh co khúc khuỷu nề chi,

Qua bao nhiêu nỗi gian nguy hiểm nghèo,

Vững tay lái chắc tay chèo,

Thác gềnh sông suối núi đèo chẳng lui,

Chết ư ? Đã mấy phen rồi,

Vượt qua cửa tử sống đời hôm nay,

Trăm năm chưa đến vạn ngày,

Biết đâu ta vượt cả ngày trăm năm !”

             Niềm tin lạc quan yêu đời của Cha năm nào hy vọng vượt cả trăm năm… Nhưng Cha đã ra đi ngày 23-8 năm Nhâm Ngọ 2002, hưởng thọ 88 tuổi.  Nhớ thương Cha, tôi càng biết ơn Cha đã nuôi dưỡng dạy dỗ tôi nên người hôm nay.

                                                                               T. T. M. T

                                                                                         Hà Nội 12-10-2025