MỘT BÀI THƠ CHỮ HÁN VỚI NGHỆ THUẬT “CHƠI CHỮ” UYÊN THÂM CỦA ĐẶNG HUY TRỨ . Nguyễn Hữu Thăng

Đặng Huy Trứ (1825-1874) là danh sĩ đời Tự Đức, tự Hoàng Trung, tên hiệu Vọng Tân, Dịch Trai, Tỉnh Trai, sinh năm 1825, quê huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông đỗ Tiến sĩ năm 1847, làm quan nổi tiếng thanh liêm và thương dân hết mực, từng được cử đi sứ các nước Trung Quốc, Triều Tiên, Thái Lan. Ông là nhà cách tân thời Nguyễn ở giữa thế kỷ XIX, là quan chức đa tài, hiểu nhiều biết rộng trên nhiều lĩnh vực, cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Ông là nhà thơ lớn, làm thơ từ năm 15 tuổi, để lại 12 tập thơ với hơn 1200 bài thơ. Tô Vĩ Đường, môt nhà thơ Trung Quốc, khi viết lời Tựa cho cuốn sách “Đặng Hoàng Trung thi văn” của Đặng Huy Trứ đã nhận xét “Thơ thật là tinh luyện, lời giản dị, ý nghĩa sâu xa, trong sáng, mới mẻ, phi thường và xuất sắc, đẹp không gì sánh được”.

Bài thơ chữ Hán “Đề Bát Tràng hương đình” (Viết ở đình làng Bát Tràng),  với nghệ thuật “chơi chữ” uyên thâm là một trong những bài thơ tiêu biểu, thể hiện đúng với nhận xét trên của Tô Vĩ Đường. Ở một khía cạnh nào đó, bài thơ này cũng cho thấy trình độ thơ Đường sáng tác bằng Hán ngữ thời Nguyễn đã đạt đến đỉnh cao như thế nào.

Nội dung bài thơ ca ngợi lịch sử truyền thống của làng Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), một làng không chỉ nổi tiếng cả nước với 500 năm nghề gốm sứ mà còn nổi tiếng với danh xưng “Làng Khoa bảng”. Một làng nghề nhỏ nằm ở ven sông chỉ có hơn 700 hộ dân nhưng có tới 364 các vị tiên nho tiên hiền, 1 trạng nguyên, 8 tiến sĩ và 2 quận công (Giáp Hải đỗ trạng nguyên làm quan đến Thượng thư), Làng Bát Tràng có ngôi đình vào loại lớn ở xứ Kinh Bắc xưa xây dựng vào năm 1719-1720 đời vua Lê Dụ Tông.

Bài thơ “Đề Bát Tràng hương đình” của Đặng Huy Trứ có nguyên tác chữ Hán như sau:

題鉢場鄉亭
                   鄧輝著

地靈人傑古芳鄰,
況是甄陶聖澤君。
家共槱薪周棫樸,
器無苦窳舜河津。
急公好義王言在,
顯宦高科帝福身。
最愛此州風味好,
滿天煙景盡陽春。

Phiên âm Hán – Việt:
Đề Bát Tràng hương đình
                 Đặng Huy Trứ

Địa linh nhân kiệt cổ phương lân,
Huống thị chân đào thánh trạch quân.
Gia cộng dữu tân Chu vực phác,
Khí vô khổ dũ Thuấn hà tân.
Cấp công hiếu nghĩa vương ngôn tại,
Hiển hoạn cao khoa đế phúc thân.
Tối ái thử châu phong vị hảo,
Mãn thiên yên cảnh tận dương xuân.

Trong bài thơ này, tác giả đã sử dụng đến 7 từ đồng âm khác nghĩa, có từ mang nội hàm điển tích rất thâm thúy:

Từ “chân đào” có 5 nghĩa khác nhau: 2 nghĩa thuộc động từ là làm đồ gốm và giáo hóa, ngoài ra còn 3 nghĩa thuộc danh từ : 1. chỉ người nắm quyền lực, 2.  Chỉ tạo hóa, thiên nhiên, 3. Chỉ vua chúa. “Chân đào” trong bài thơ có thể hiểu theo 2 nghĩa là sản xuất đồ gốm và giáo dục rèn luyện, vừa nói về nghề truyền thống làm gốm, vừa phản ánh truyền thống học hành khoa cử, quan chức  của làng Bát Tràng.

 Câu “Gia cộng dữu tân Chu vực phác”: Dữu tân: tức tân dữu. tân có nghĩa theo danh từ là củi và theo nghĩa động từ là kiếm củi;  tân dữu lại có nghĩa là cầu mong người tài giỏi (chữ lấy trong Kinh Thi, thiên Đại nhã, phần Vực phác: “Bổng bổng vực phát, tân chi dữu chi” 芃芃棫樸,薪之槱之 (cây vực mọc thành bụi um tùm, chặt làm củi chất đống cao). Trong từ “vực phác” thì “vực”  là một loài cây nhỏ có gai, hoa trắng, quả ăn được, “phác” là thứ gỗ thô, chưa đẽo gọt, Trong văn học “vực phác” được ví người hiền tài có rất nhiều.

 Khí trong câu 4 có 2 nghĩa: Vừa là “đồ vật”, lại vừa có nghĩa chỉ phẩm chất và tài năng của con người. Trong bài thơ, từ “khí” vừa chỉ đồ gốm, vừa chỉ sự thông minh tài giỏi của con người làng Bát Tràng.

 Khổ dũ theo nghĩa đen là đồ vật thô, xấu; “vô khổ dũ” là không có đồ thô xấu; theo nghĩa bóng là không có người kém cỏi. Từ “khổ dũ” được dẫn từ trong câu thơ của Tiêu Dĩnh Sĩ đời Đường “Chí hóa vô khổ dũ, vũ trụ tướng đào tân至化無苦窳,宇宙將陶甄 (tu dưỡng thật tốt thì không kém cỏi, thế giới sẽ được giáo hóa).

 Hà Tân nghĩa đen là “bến sông”,  nhưng lại đồng âm với Hà Tân là tên một huyện phía đông sông Hoàng Hà (Trung Quốc), sau đổi tên là Long Môn (Cửa Rồng). Sách Sử ký có câu: “Đào Hà Tân, Hà Tân khí giai bất khổ dũ” (Bên bờ sông (Hoàng Hà) làm đồ gốm, ở đó hoàn toàn không có gốm xấu) . Tác giả dùng chữ Hà Tân ở đây với hai nghĩa: Vừa chỉ làng Bát Tràng ở cạnh bến sông, có loại đất sét trắng làm nguyên liệu tốt cho nghề gốm. Đồng thời, “Hà Tân” lại mang nghĩa “Cửa Rồng” chỉ nơi cá vượt vũ môn hóa rồng, nói lên truyền thống đỗ đạt khoa bảng, làm quan của làng này. “Thuấn Hà Tân” là muốn nói đến sự phát đạt của làng không khác gì thời thịnh trị vua Thuấn Trung Quốc.

Cao khoa: vừa mang nghĩa vật phẩm làm ra loại tốt nhất, lại vừa có nghĩa là đỗ đạt cao.

Khi dịch nghĩa bài này, với 4 câu mang 7 từ đồng âm khác nghĩa trên, nên khi dịch chỉ có thể dịch thành 2 bài theo 2 nghĩa khác hẳn nhau:

VIẾT Ở ĐÌNH LÀNG BÁT TRÀNG

  • Hiểu theo nghĩa là làng làm gốm truyền thống:

Đất thiêng, người giỏi, đúng là một làng có tiếng thơm lâu đời.

Huống chi nơi đây sản xuất đồ gốm, được hưởng ơn vua.

Nhà nhà đều kiếm củi, nhặt nhạnh từ bụi cây nhỏ như thời nhà Chu.

Đồ vật làm ra không có loại xấu nhờ đất tốt bến sông Hoàng Hà như thời vua Thuấn.

“Hăng hái làm việc công, ham làm việc nghĩa” lời vua khen còn đó.

Tỏ ra là vật phẩm tốt nhất để phục vụ, được hưởng phúc của vua ban cho mình.

Thật đáng yêu đất này với bao nhiêu phong tục, ý vị cao đẹp.

Đầy trời khói nghi ngút mang cảnh tượng mùa xuân.

Dịch thơ:

Đất thiêng người giỏi tiếng xa gần

Bàn gốm xoay tròn hưởng Thánh ân

Chọn củi, cành con chăm lượm nhặt

Nhờ sông, đồ tốt giỏi làm ăn

Việc công hiếu nghĩa vua khen nghiệp

Hàng gốm đẹp sang phúc hưởng phần

Quý nhất nơi đây nền nếp cổ

Đầy trời nghi ngút khói mây xuân.

(NHT dịch)

2Hiểu theo nghĩa là làng có truyền thống khoa bảng, làm quan:

Đất thiêng, người giỏi, đúng là một làng có tiếng thơm lâu đời.

Huống chi đây lại là từ công đào tạo giáo huấn mà nên, cùng được hưởng ân vua .

Nhà nhà cầu mong người tài giỏi từ đám người dân thường như đời Chu.

Tài năng đào tạo ra không hề có loại kém là nhờ “Cửa Rồng” đời vua Thuấn.

“Hăng hái làm việc công, ham làm việc nghĩa” lời vua khen còn đó.

Làm quan to, đỗ đạt cao được hưởng phúc của vua ban cho mình.

Thật đáng yêu đất này với bao nhiêu phong tục, ý vị cao đẹp.

Đầy trời khói nghi ngút mang cảnh tượng mùa xuân.

          Dịch thơ:

Địa linh nhân kiệt  tiếng xa gần

Giáo huấn luyện rèn hưởng Thánh ân

Làng xóm người tài từ đại chúng

Cửa rồng đất tốt được cao nhân

Hiếu trung nghĩa cả vua khen đức

Khoa bảng quan to phúc hưởng phần

Quý nhất nơi đây nền nếp đẹp

Đầy trời nghi ngút khói mây xuân.

(NHT dịch)

Có thể nói, nếu như không có một trình độ Hán ngữ cao siêu, kiến thức Đông Tây kim cổ uyên bác, trí thông minh đặc biệt thì khó có thể làm nổi bài thơ chữ Hán thể Đường luật Thất ngôn bát cú tài hoa đến như vậy. Bài thơ không những niêm luật chuẩn mực, đối ngẫu, vần điệu chính xác…, mà nghệ thuật “chơi chữ” là cực kỳ tài giỏi, điêu luyện.

                                                          N.H.T

Tài liệu tham khảo:

Đặng Huy Trứ – Con người và tác phẩm, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.

 

 

 

Phụ lục:

MỘT SỐ BÀI THƠ ĐẶNG HUY TRỨ

 Dịch thơ: Nguyễn Hữu Thăng

 

 

遠眺
(二十三日)

鄧輝著
蒼茫此外試橫襟,
無限天高與海深。
雲影水光千里目,
臣中子孝一生心。
半空圖畫書難盡,
故國山河思不禁。
最喜東南風色好,
舟師日夜看盤針。

Phiên âm:
VIỄN DIỂU
(Nhị thập tam nhật)

Thương mang thử ngoại thí hoành khâm,

Vô hạn thiên cao dữ hải thâm.
Vân ảnh thuỷ quang thiên lý mục,
Thần trung tử hiếu nhất sinh tâm.
Bán không đồ họa thư nan tận,
Cố quốc sơn hà tứ bất câm.
Tối hỷ đông nam phong sắc hảo,
Chu sư nhật dạ khán bàn châm.

Dịch nghĩa:
NHÌN RA XA
(Ngày 23)

Trong khoảng mênh mông bát ngát này cố thử nâng ngang tầm ngực,
Trời cao vô hạn, biển sâu thăm thẳm.
Con mắt ngàn dặm phải nhìn thấu đến bóng mây ánh nước.
Tấm lòng một đời ta là làm tròn trách nhiệm người trung thần và người con hiếu.
Bức tranh lưng trời tả sao hết được,
Giang sơn cố quốc cảm xúc khó ngăn.
Mong sao sức gió đông nam tốt lành,
Người nhà thuyền ngày đêm dõi theo chiếc kim trên la bàn.

Chú thích:
– Vân ảnh, thủy quang: Bóng mây, ánh nước. Chữ vân, thủy còn có ý ví người nay đây mai đó như mây trôi nước chảy.

– Thiên lý mục: Mắt nhìn xa ngàn dặm, ví việc xem xét thật sâu xa. Truyện Dương Dật (Bắc sử) ghi: “Dương Dật làm thứ sử ở Quang Châu luôn mở rộng tai mắt để thấu tỏ mọi điều tốt xấu, hay dở để không bị lừa dối”. Tác giả có ý nói nhiệm vụ sắp tới của mình.

 

Dịch thơ:

Nâng tầm ngang ngực giữa mênh mông

Vời vợi tầng cao, biển thẳm cùng

Ngàn dặm thấu mây xuyên đáy nước

Một đời tận hiếu vẹn lòng trung

Lưng trời tranh vẽ sao cho hết

Sông núi quê hương nhớ chẳng ngừng

Mong gió đông nam lồng lộng mát

La bàn thủy thủ tối ngày trông.

NHT dịch

 

自慰
鄧輝著
科甲寧非分,

窮通且莫言。
雷霆而雨露,
指日又龍門。

Phiên âm:
TỰ ÚY 
Đặng Huy Trứ
Khoa giáp ninh phi phân,
Cùng thông thả mạc ngôn.
Lôi đình nhi vũ lộ,
Chỉ nhật hựu long môn.

Dịch nghĩa:
TỰ AN ỦI
Thi cử cho dù chẳng do số phận

Bàn làm chi chuyện thành hay bại
Sấm sét đấy rồi sẽ mưa móc đấy
Chẳng bao lâu cá sẽ lại vượt cửa rồng

Chú thích:
– Long môn: cửa rồng, chỗ nước chảy mạnh. Theo truyền thuyết, đến chỗ đó con cá nào nhảy qua được sẽ hóa rồng. Chỉ việc thi cử. Ngay mùa thu năm này tác giả đi thi lại và đỗ đầu, giải nguyên.

Dịch thơ:

Thi cử nào do số,

Thắng thua chẳng phải bàn.

Mưa rào sau sấm sét,

Cá vượt cửa rồng sang.

NHT dịch

 

自題公座小真
鄧輝著

衣冠瞻是本來區,
李老胸中有定模。
郭女不分前後畫,
莊生難別故今吾。
巡宣政績虛談邵,
憂辱臣心決沼吳。
一點靈臺君識否,
擬來西域畫全圖。

Phiên âm:
Tự đề công toạ tiểu chân
Đặng Huy Trứ
Y quan chiêm thị bản lai khu,
Lý lão hung trung hữu định mô.
Quách nữ bất phân tiền hậu họa,
Trang sinh nan biệt cố kim ngô.
Tuần tuyên chính tích hư đàm Thiệu,
Ưu nhục thần tâm quyết chiểu Ngô.
Nhất điểm linh đài quân thức phủ,
Nghĩ lai Tây Vực họa toàn đồ.

Dịch nghĩa:
ĐỀ BỨC ẢNH MẶC TRIỀU PHỤC
Trông ra đủ mũ áo nhưng cũng là mình đây,

Ông Lý đã nghĩ sẵn trong lòng cách miêu tả.
Nàng Quách không phân biệt được đâu là bức vẽ trước, đâu là bức vẽ sau,
Chàng Trang cũng khó biết đâu là tôi ngày nay và đâu là tôi ngày trước.
Nếu đem chuyện Thiệu Bá xưa ra nói thì chính tích khi làm tuần tuyên thật        chẳng được chút gì.
Nhưng cái lo, cái nhục của lòng người bề tôi là quyết tiêu diệt giặc.
Một điểm trong tim tôi anh có biết không,
Muốn sang Tây Vực để vẽ bức tranh toàn cảnh.

Chú thích:
Bức vẽ truyền thần này vẽ năm 1865 hiện còn lưu giữ ở nhà thơ họ Đặng
– Lý lão: tức Lý Thúy Nham, một họa sĩ giỏi ở Quảng Đông, người đã vẽ bức truyền thần tác giả Đặng Huy Trứ.

– Quách nữ: Quách nữ được xem hai bức vẽ chồng mình do hai người vẽ, nhưng khen một bức vừa giống, vừa có thần.
– Tuần tuyên: tức Thừa tuyên, chức quan có nhiệm vụ giáo hóa dân chúng. Đặng Huy Trứ đã làm Bố chính đứng đầu một tỉnh.
– Thiệu: tức Thiệu Bá, vị quan tốt rất gần dân, đi kinh lý thường nghỉ dưới gốc cây giải quyết công việc của dân, được dân rất yêu mến.
– Chiểu Ngô (biến kinh đô nước Ngô thành cái ao): Xuất xứ từ Tả truyện. Nước Việt quyết diệt bằng được nước Ngô để lấy lại giang sơn. Mười năm trời tích trữ tài lực, 10 năm giáo dục dân chúng, ngoài hai mươi năm mới phá được nước Ngô, biến cung điện của nhà Ngô thành ao đầm.

Dịch thơ:

Chỉnh tề mũ áo vẫn mình đây

Bác Lý trong tâm nghĩ đủ đầy

Nàng Quách không tường tranh mới cũ

Chàng Trang chẳng biết lão xưa nay

Tuần tuyên sánh Thiệu công lao nhỏ

Tâm huyết diệt thù ý khí say

Một điểm trong tim, người có thấu  

Muốn sang Tây Vực vẽ càng hay.

NHT dịch

 

 


鄧輝著
村居寂寞對斜陽,

別有燈勍作主張。
自是乾坤分正氣,
寧非日月佐容光。
芳園秉燭春無限,
藝苑焚膏夜未央。
書案策勳推第一,
與吾辛苦十風霜。

Phiên âm:
ĐĂNG

Đặng Huy Trứ
Thôn cư tịch mịch đối tà dương,
Biệt hữu đăng kình tác chủ trương.
Tự thị càn khôn phân chính khí,
Ninh phi nhật nguyệt tá dung quang.
Phương viên bỉnh chúc xuân vô hạn,
Nghệ uyển phần cao dạ vị ương.
Thư án sách huân suy đệ nhất,
Dữ ngô tân khổ thập phong sương.

Dịch nghĩa:
ĐÈN

Nơi thôn quê tịch mịch trong bóng chiều tà,
Chỉ có ngọn đèn làm chúa tể.
Phân ra cái chính khí của trời đất,
Nơi tối nơi sáng đâu cần nhờ đến mặt trời mặt trăng.
Trong vườn hoa thơm cắm đuốc lên mà chơi thì xuân như vô hạn,
Nơi rừng văn dầu đốt lên thì đêm như bất tận.
Nói đến công lao bên án sách phải suy tôn đèn là bậc nhất,
Đèn cùng ta đã gian khổ suốt mười năm gió sương.

 

Dịch thơ:

Thôn quê tịch mịch ánh tà xiên

Chúa tể nơi đây có ngọn đèn

Thay đất thay trời phân phải trái

Không trăng không nắng rõ ngày đêm

Vườn hoa cắm đuốc xuân vô tận

Rừng chữ đốt dầu tối mãi quen

Bên sách công lao tôn bậc nhất

Mười năm sương gió bạn lâu bền.

NHT dịch

 

 

桑婦飼蠶
鄧輝著
蠶室紛忙計在衣,

每從飼養慎幾微。
一筐一箔身兼理,
三起三眠候不爲。
絲未離盆先問價,
蛹才出繭暫充饑。
若非桑婦辛勤甚,
綾帛何由上得機。

Phiên âm
Tang phụ tự tàm
Đặng Huy Trứ
Tàm thất phân mang kế tại y,

Mỗi tòng tự dưỡng thận cơ vi.
Nhất khuông nhất bạc thân kiêm lý,
Tam khởi tam miên hậu bất vi.
Ty vị ly bồn tiên vấn giá,
Dũng tài xuất kiển tạm sung ky (cơ).
Nhược phi tang phụ tân cần thậm,
Lăng bạch hà do thượng đắc ky (cơ).

Dịch nghĩa:
NGƯỜI ĐÀN BÀ CHĂN TẰM
Công việc trong buồng tằm bận rộn là để lo toan việc áo quần,

Mỗi lần cho tằm ăn rất thận trọng, tỉ mỉ.
Một giỏ, một nong đích thân phải làm cả.
Ba thức, ba ngủ, thời gian không làm khác được,
Tơ chưa ra khỏi nồi đã phải đi hỏi giá,
Nhộng vừa ra khỏi kén tạm dùng khi thiếu thức ăn.
Không có sự cần cù vất vả của người chăn tằm,
Thì lụa là làm sao lên khung được.

 

Dịch thơ:

Muốn áo quần may phải bận tằm

Cầu kỳ cẩn thận lúc nuôi chăm

Giỏ nong liên tiếp sang rồi chuyển

Thức ngủ triền miên đứng lại nằm

Nồi vẫn còn tơ lo hỏi bán

Nhộng vừa khỏi kén vội tìm ăn

Không người vất vả lo dâu lá

Khung cửi lụa là liệu có chăng?

NHT dịch

 

 

舁枱助喪
鄧輝著

狐兔鐘情屬井閭,
素帷丹旐送歸居。
人皆步履成規矩,
地有平陂失堰瀦。
士不含枚軍令肅,
喪能盡禮子心舒。
鄰鄉接壤觀如堵,
第一陰功更讓渠。

Phiên âm:
Dư đài trợ táng
Đặng Huy Trứ
Hồ thố chung tình thuộc tỉnh lư,
Tố duy đan triệu tống quy cư.
Nhân giai bộ lý thành quy củ,
Địa hữu bình pha thất yển trư.
Sĩ bất hàm mai quân lệnh túc,
Táng năng tận lễ tử tâm thư.
Lân hương tiếp nhưỡng quan như đổ,
Đệ nhất âm công cánh nhượng cừ.

Dịch nghĩa:
KHIÊNG ĐÒN GIÚP ĐÁM TANG
Tình đồng loại nghĩa xóm làng,

Màn trướng phướn đỏ tiễn đưa về nơi an nghỉ cuối cùng.
Bước đi đã thành quy củ, bước cùng bước, dừng cùng dừng,
Đường bằng phẳng hay mấp mô cũng tránh những vũng nước,
Không ngậm tăm mà im phăng phắc như có quân lệnh rất nghiêm,
Việc chôn cất vẹn tròn theo đúng lễ nghĩa, con cái cũng thư thái trong lòng.
Làng bên xóm giềng đến xem đông nghịt,
Công của người khiêng đòn là nhất há chịu nhường ai.

Chú thích:
– Hồ thố: từ câu thành ngữ Thố tử hồ bi 兔死狐悲 (thỏ chết cáo buồn), ý nói tình thương giữa đồng loại. Tống sử Lý Toàn truyện dẫn: “Hồ tử thố khấp, Lý thị diệt, Hạ thị ninh độc tồn”(cáo chết thỏ khóc, họ Lý bị tiêu diệt, họ Hạ có thể một mình tồn tại được không). Thành ngữ này ngày nay được hiểu là tình thương đồng loại.
– Hàm mai:  Hàm (ngậm),  mai (cái thẻ). Hàm mai là ngậm thẻ. Lúc đưa quân đánh úp một nơi nào, quân lính muốn được im lặng, mỗi người phải ngậm một cái thẻ, (thường nói ngậm tăm).
– Âm công: công lao đối với cõi âm, chỉ người khiêng đòn.

 

Dịch thơ:

Đồng loại còn thêm nghĩa xóm làng

Tiễn đưa trướng đỏ lẫn màn tang

Chân đi sau trước luôn đều đặn

Đường trải thấp cao vẫn vững vàng

Quân lệnh uy nghiêm ngừng giọng tiếng

Lễ nghi tề chỉnh nhẹ tâm can

Làng bên đến viếng người đông nghịt

Công đức khiêng đòn khó sánh ngang.

NHT dịch

 

牆蓋屋
鄧輝著

梧桐昨夜報秋涼,
到處經營屋與牆。
椰葉竹枝相絡繹,
山芼咊葛共紛忙。
於垣鴻雁終安宅,
綢戶鴟鴞早徹桑。
室處保無風雨患,
全憑家長事先防。

Phiên âm:
Tu tường cái ốc
Đặng Huy Trứ

Ngô đồng tạc dạ báo thu lương,
Đáo xứ kinh doanh ốc dữ tường.
Da diệp trúc chi tương lạc dịch,
Sơn mao hoà cát cộng phân mang.
Vu viên hồng nhạn chung an trạch,
Trù hộ xi hiêu tảo triệt tang.
Thất xứ bảo vô phong vũ hoạn,
Toàn bằng gia trưởng sự tiên phòng.

Dịch nghĩa
SỬA TƯỜNG LỢP NHÀ

Đêm qua cây ngô đồng đã báo cái lạnh của mùa thu,
Khắp nơi nhộn nhịp cảnh sửa sang lại nhà cửa.
Lá dừa thân tre đem qua đem lại không dứt,
Cỏ lau, rơm rạ rối bời.
Đắp ổ, chim hồng nhạn cuối cùng đã yên chỗ ở,
Chim cú đã sớm bóc vỏ dâu chằng lại tổ.
Giữ cho ngôi nhà không sợ tai họa gió mưa,
Thảy đều trông vào việc sớm lo toan của người chủ nhà.

Chú thích:
– Vu viên
於垣 (đắp tường, xây tường): chữ trong thơ Hồng nhạn 鴻雁, chương II, phần Tiểu nhã 小雅 của Kinh Thi 詩經, ý nói dân phải xiêu dạt, nay lại được về đắp tường, dựng nhà để ở yên ổn, cũng như chim hồng, chim nhạn bay đi rồi lại trở về chỗ cũ.
– Xi hiêu
鴟鴞 (con cú): chữ trong thơ Xi hiêu 鴟鴞, chương II,  phần Bân phong 豳風 của Kinh Thi 詩經 , trong đó có câu: “Triệt bỉ tang thổ, Trù mâu dũ hộ” 徹彼桑土, 綢繆牖戶(Bay đến lấy vỏ ở gốc cây dâu để rịt lại những lỗ trống, những kẽ hở).

Dịch thơ:

Ngô đồng báo lạnh suốt đêm qua

Nhộn nhịp nơi nơi sửa lại nhà

Tre nứa, lá dừa la liệt chở

Cỏ lau, rơm rạ rối bời tha

Chim hồng chiếc tổ vừa yên ở

Con cú vỏ dâu cũng bóc ra

Mưa gió chẳng còn lo giáng họa

Thảy nhờ gia chủ sớm lo xa.

NHT dịch

 

除夕上標
鄧輝著

辟惡迎歡此一宵,
家家齊上竹爲標。
時窮君子心猶直,
腊盡魔王首已梟。
掠食鬼相過七日,
拜年人共慶三朝。
相沿國俗由來久,
未必竿頭足勝妖。

Phiên âm:
Trừ tịch thượng tiêu
Đặng Huy Trứ

Tịch ác nghênh hoan thử nhất tiêu,
Gia gia tề thượng trúc vi tiêu.
Thời cùng quân tử tâm do trực,
Lạp tận ma vương thủ dĩ kiêu.
Lược thực quỷ tương qua thất nhật,
Bái niên nhân cộng khánh tam triêu.
Tương duyên quốc tục do lai cửu,
Vị tất can đầu túc thắng yêu.

Dịch nghĩa:
ĐÊM BA MƯƠI TRỒNG CÂY NÊU
Trừ điều ác, đón niềm vui cùng một đêm nay

Nhà nào nhà nấy đều dựng cây tre lên làm nêu
Lúc cùng, người quân tử lòng vẫn thẳng
Cuối chạp ma vương tất bị bêu đầu
Bảy ngày tới bầy quỷ tha hồ cướp mà ăn
Người thì chỉ chúc tết nhau ba ngày thôi
Phong tục nước ta truyền lại từ xưa như thế
Chứ một cây sào vị tất thắng nổi lũ yêu ma.

 

Tài liệu tham khảo:
Đặng Huy Trứ – Con người và tác phẩm, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1990

 

Dịch thơ:

Trừ ác, đón vui một tối chiều

Nhà nhà tre trúc dựng cây nêu

Lúc cùng, quân tử lòng luôn thẳng

Cuối chạp, ma hồn sỏ ắt bêu

Qủy sứ bảy ngày ăn cứ thỏa

Người ta ba buổi chúc nhau đều

Nước mình phong tục xưa truyền lại

Chứ chỉ cây sào liệu thắng yêu?

NHT dịch

 

Tài liệu tham khảo:

Đặng Huy Trứ – Con người và tác phẩm, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.