Ký ức về bài thơ “Xuân chiến địa” của nữ sĩ Ngân Giang. Bài viết của GSTS Trần Thị Băng Thanh
Ký ức về bài thơ Xuân chiến địa của nữ sĩ Ngân Giang
Khoảng thập niên năm mươi của thế kỷ trước, gia đình tôi tản cư ở một phố nhỏ ven bờ sông Chu Thanh Hoá. Tên phố không biết được đặt từ bao giờ nhưng nó gợi cho người ta một cảm giác thật yên lòng: Phố Hậu Hiền. Thanh Hoá bấy giờ là vùng hậu phương. Chiến tranh còn ở xa, phố Hậu Hiền vẫn yên bình, còn là địa điểm “đô hội” của một vùng có vai trò như là trung tâm văn hoá bởi một loạt các trường từ khu Ba tản cư vào, các trường mới thành lập, và cả Trường Đào Duy Từ của Thanh Hoá ở xa hơn một chút. Các trường đó là: Lớp Dự bị đại học, Trường Nguyễn Thượng Hiền, Trường Sư phạm Sơ cấp, Trường Sư phạm thực hành, Trường Diên Hồng, … Khu phố tôi ở trước kia vốn là một làng ven sông hiền lành, người dân sống bằng lúa gạo trồng cấy trên những cánh đồng hai vụ nhờ có sông Nông giang dẫn nước và ngô đay trồng nơi bờ bãi mầu mỡ phù sa do những trận lụt tháng bảy tháng tám bồi đắp; cũng không hiểu vì sao họ không theo nghề sông nước. Bấy giờ làng đã thành phố, nhưng mặt phố chủ yếu vẫn do người tản cư ở buôn bán, còn dân làng thì lùi sâu vào phía trong và chủ yếu là làm ruộng. Thay đổi sâu sắc đối với vùng quê thuần nông này là không khí sinh hoạt văn hoá. Buổi chiều, dưới các mái đình cổ kính, gốc đa, dặng vải ven sông, là buổi tự học hoặc nghe các giáo sư nổi tiếng Phó Đức Tố, Nguyễn Mạnh Tường và nhiều bậc khác nữa giảng Triết học, Văn học, Toán học … của các anh chị lớp Chuyên khoa thời kỳ đầu và sau là lớp Dự bị đại học. Buổi tối, tản mát trong nhà dân các làng là các lớp học từ cấp I đến Cấp III; cho đến tận 11, 12 giờ đêm dưới các lùm tre dầy còn thấp thoáng bóng đèn chai, đèn kính như những đốm lửa ma trơi của học sinh đi học về. Bên cạnh đó là những buổi sinh hoạt văn nghệ, dàn Hợp xướng của trường Nguyễn Thượng Hiền do nhạc sĩ Trọng Bằng (lúc đó đám học sinh nhỏ chúng tôi chỉ biết là “anh Trọng Bằng học lớp trên”) chỉ huy; có nhóm đồng ca của phố Hậu Hiền do nhạc sĩ Tạ Phước đích thân dạy hát và nhạc sĩ Tạ Bôn lúc đó còn rất nhỏ tuổi kéo đàn viôlông … Nhưng điều quan trọng nhất, có tính chất truyền bá và nâng cao tri thức cho thanh niên trong vùng là việc sách báo được phổ cập do mọi người tìm đọc và truyền cho nhau đọc. Báo chí cũng không nhiều, hình như chỉ có tờ Cứu quốc là có tính chất thời sự, Văn Nghệ, Tiên phong thỉnh thoảng mới kiếm được. Người đọc báo bình dân thời đó phần lớn cũng không cần biết đến báo cũ mới ra sao, kiếm được là say sưa truyền nhau đọc cho đến khi tờ báo rách nát… Lúc đó người viết bài này cũng còn rất nhỏ, đang học lớp 3 lớp 4 gì đó, cũng “vớ” được sách gì, báo gì thì chúi mũi vào đọc. Và tôi đã đọc Bên đường 12 của Vũ Tú Nam, Mầu tím hoa sim, Người chị, lúc đó không biết của ai, chỉ chép truyền tay, không nhớ và cũng không tìm hiểu xem đăng trên báo hay tạp chí nào. Trong sự tìm đọc ngẫu nhiên đó, tôi đọc được bài Xuân chiến địa, bây giờ cũng không nhớ là in trên sách hay báo gì, nhng ghi rõ tác giả là “Nữ sĩ Ngân Giang”. Bài thơ được nhiều chị lớn (chúng tôi gọi các chị thanh nữ lớn tuổi hơn mình như vậy), trong đó có những thôn nữ, ưa thích, thuộc lòng. Tôi đã thấy các chị khe khẽ ngâm nga những lúc ngồi đan áo, khâu nón… những nghề mà bấy giờ có thể sinh sống được. Không khí ấy cũng kích thích tôi thuộc gần hết bài thơ mà theo trí nhớ của tôi thì có một vài chữ khác với bài trong tập Lấp lánh sông Ngân vừa được xuất bản, có thể do tôi nhớ sai hoặc do lỗi bản in và cũng có thể sau này tác giả sửa chữa. Những đoạn tôi nhớ được như sau:
Gió dịu, mây hiền, ánh nắng tơi,
Núi sông bừng nở vạn hoa cười.
Bãi sa trường ngát men tranh đấu,
Có kẻ say nhìn chốn viễn khơi.
Người đẹp chân trời xiết đợi trông,
Một chiều nhạc ngựa rộn bên sông.
Chàng đi lo rửa hờn dân tộc,
Và trở về cùng những chiến công.
Lời thư và áo người thương ấy,
Gửi độ thu sang lá nhuộm vàng.
Đây cả tấm lòng dâng chiến sĩ,
Quên tình riêng nhé, nhớ giang san!
Công chúa Ngọc Hân mơ Nguyễn Huệ,
Bởi say sự nghiệp khách anh hùng.
Em cũng mơ người trai đất Việt,
Sẽ là một bậc Nguyễn Quang Trung.
Đẹp gì chăn gối trong khi cả,
Dân tộc sôi lên chí quật cường.
Hãy gác tình riêng mưu nghiệp lớn,
Để đong máu giặc dội biên cương.
Ngày mai trọn phận người dân nước,
Vó ngựa xin dừng dưới mái tranh.
Để ngắm ai xa ngồi dệt lụa,
Má đào vẫn thắm tóc đang xanh.
Nếu sớm hy sinh nơi chiến địa,
Chữ vàng chói lọi ánh vinh quang.
Em kiêu hãnh như chồng em đã,
Sống với thời gian vượt thế gian.
……….
Lời sao xúc động lòng anh dũng,
Chiến sĩ cao nhìn thẳng núi sông.
Ta quyết hứa: – Ngời trai nước Việt
Sẽ là những bậc Nguyễn Quang Trung.
Phấp phới ngọn cờ bay trước gió,
Chiêng rung gươm tuốt ánh hào quang.
Các anh còn mối hờn dân tộc,
Cả một mùa xuân giữa chiến tràng.
Ngày ấy có những câu thơ tôi không hiểu thật rõ nội dung, ý nghĩa nhưng cảm thấy có một điều gì không phải điều vui nhưng rất thiêng liêng gửi gắm trong đó, như câu Em kiêu hãnh như chồng em đã, Sống với thời gian vượt thế gian. Có thể vì chữ nhủ đã bị nhầm thành chữ như làm cho câu thơ không rõ nghĩa, nhưng dù sao thì tứ thơ ấy cũng như tứ thơ một số câu thơ khác, chẳng hạn một câu trong bài Đợi anh về của Simônốp “Bạn cũ có quên rồi… Đợi anh hoài em nhé” (tại sao bạn cũ lại quên?) vẫn cao siêu vượt quá tầm suy nghĩ trẻ con của tôi. Tuy vậy quan sát “các chị”, tôi lại tưởng tượng được rằng trong lòng “các chị” hình như đã có bóng dáng cụ thể hay mơ hồ nào đó về một chàng trai đất Việt. Thời ấy trong khu phố tôi đã có một vài mối tình giữa các chị, nữ sinh có và thôn nữ cũng có, với các anh chiến sĩ, xuất thân học sinh tiểu tư sản có và nông dân cũng có, về sau hình như nhiều đôi cũng có kết cục tốt đẹp. Nhng ngay từ lúc đó những mối tình ấy cũng đã rất được ngỡng mộ. Trong thời chiến chinh, đó là những mối tình đẹp. Những cô gái yêu người chiến sĩ, trong tình cảm có phần ngưỡng mộ “khách anh hùng”, có phần thương và cảm phục nỗi gian lao nguy hiểm, quên mình vì nghĩa lớn của các chàng trai. Nhưng yêu và lấy bộ đội các cô gái cũng chấp nhận những bất trắc và cũng dám hy sinh, dù những hy sinh ấy là âm thầm và không phải lúc nào cũng giãi tỏ được. Không dám nói riêng Nữ sĩ Ngân Giang đã gieo mầm tình cảm lãng mạn mang chất tráng ca ấy trong tâm tình lớp thanh thiếu nữ một thời, vì đó còn là phong khí thời đại được khơi gợi lên từ “tiếng gọi non sông”, nhưng Ngân Giang quả đã nói hộ và nói đúng những điều thầm kín của tấm lòng nhiều thanh nữ thời đó. Chính vì vậy bài Xuân chiến địa được nhiều người ưa thích và thuộc lòng.
Đối với riêng Nữ sĩ Ngân Giang, Xuân chiến địa là một bài thơ vui, hùng tráng, hầu như đơn nhất trong tập Sông Ngân lấp lánh, nếu không tính bài thơ thêu tặng Hồ Chủ Tịch. Bài thơ là đỉnh cao của một giai đoạn sáng tác, nồng nàn tinh thần yêu nước, đậm chất tráng ca của Nữ sĩ. Tôi đã không biết rằng khi tôi đọc được bài thơ trữ tình đằm thắm đó thì nữ sĩ đã buộc phải “về thành”, một thời hào hùng với vị trí cán bộ cách mạng, nổi tiếng với những bài Đuổi giặc đêm trăng, Cắm chông, Bài viết tặng thương binh… đã khép lại. Mặc dù lòng còn gửi “nơi viễn xứ”: “Người chốn quê hương, tình vạn dặm, Đêm trường tựa cửa đối gương nga” (Tình vạn dặm), vẫn kín đáo viết thơ, viết phú tuyên truyền, ủng hộ kháng chiến, nhưng cuối cùng đành phải chấp nhận hoàn cảnh, An phận:
Đường cùng, bước tận phải khoanh tay,
Qua mấy năm rồi mới đến nay.
Cá sám thu vây chờ vượt sóng,
Rồng vàng uốn khúc đợi tung mây.
Một vùng đất cũ say mà tỉnh,
Năm ngả thành xa tỉnh hoá say.
Sống giữa lòng đêm tìm khối sáng,
Tim sầu nào biết gửi ai đây?
Bài thơ này được viết ngày 10 tháng 8 năm 1951, dù nói là an phận nhưng có vẻ như Ngân Giang vẫn chờ.
Những bài thơ viết khoảng năm 1951, 52 được in trong tập thơ Lấp lánh sông Ngân đều buồn, rất buồn. Có cái buồn do đời sống “gian nan quá”, “Đất lành giặc đuổi”, “Mùa loạn không tiền”, dồn đuổi tác giả đến chỗ gần như bế tắc:
Tháng năm tinh tú chuyển vần,
Phong lưu sống giữa phong trần xót xa.
Nghe đêm mưa xuống rừng hoa,
Nghe chiều mây phủ non xa nghìn trùng.
(Phong trần)
Thực ra trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, cơm áo cũng là một thử thách lớn đối với nhiều gia đình từ thành phố tản cư ra hậu phương, nhất là đối với các bà mẹ. Không ít người phải “gạt nước mắt” trở về vùng tạm chiếm, bởi không thể lo đủ rau cháo cho con. Sự “phong trần” ấy của Nữ sĩ Ngân Giang cũng có thể có nhiều người đồng cảnh ngộ chia sẻ, nhưng niềm xót xa thân phận đến nỗi phải Sống hận, không còn mong chờ gì được nữa thì đó là nỗi đau mà có lẽ chỉ riêng Nữ sĩ trải nghiệm và tự gánh vác một mình:
Máu đẫm tâm tình, máu đẫm thơ,
Tấm thân gian khổ đến bao giờ.
Mẹ theo chồng mới, cười như mếu,
Con nhớ cha xa, khóc ngỡ đùa.
Sánh với Vương Tường khi lận đận,
So cùng Trác Thị lúc bơ vơ.
Chao ôi thân thế chiều hoang lạnh,
Lỡ bến là thôi lỡ đợi chờ!
Tôi từ khi được đọc và thuộc bài thơ Xuân chiến địa vẫn quý và khâm phục Nữ sĩ Ngân Giang, nhưng lúc trước tôi quan niệm đó là tình cảm riêng chỉ giữ lại trong lòng, sau này lại do đối tượng công việc, tôi chưa một lần tiếp xúc bày tỏ với tác giả và cũng không có ý định tìm hiểu tác phẩm của Nữ sĩ, mặc dầu những năm gần đây đôi khi được nghe Phó giáo sư Đỗ Văn Hỷ, bậc đồng nghệp cao niên của chúng tôi khen tài và sắc Nữ sĩ. Bây giờ nghĩ lại, nếu tôi có thể thông tin đến bà về cảm tình của một “bạn đọc” nhỏ tuổi và các thanh nữ, những bạn đọc trẻ trung ở một vùng hậu phương xa xôi đối với một trong bốn nghìn bài thơ của bà từ nửa thế kỷ trước, biết đâu chẳng đem lại cho bà chút niềm vui nho nhỏ trong những ngày “quét lá bên sông”?
Nữ sĩ Ngân Giang là nhà thơ nữ có công với cách mạng và thơ ca kháng chiến. Bà viết thơ Đường, có người đã coi bà là “nữ hoàng của Đường thi Việt Nam”, tuy vậy thơ Đường của bà cũng rất hiện đại, rất “thơ mới”. Tôi không dám bình thơ Ngân Giang, cũng không có đủ điều kiện để khảo sát thơ Nữ sĩ dưới góc độ thể loại thơ luật Đường, trong bài viết ngắn này tôi chỉ xin kể lại ký ức trẻ thơ của tôi về một bài thơ, một khoảnh khắc thơ của Nữ sĩ để thể hiện một cách muộn màng lòng ngưỡng mộ của tôi tới một tài hoa mà đáng lẽ tôi phải thực hiện sớm hơn rất nhiều. Nhưng dù thế, xin Nữ sĩ nhận cho tấm lòng của tôi “một tấm lòng trong vạn tấm lòng”.
Ô Đồng Lầm, tháng Trung thu Năm Bính Tuất (2006)
Trần Thị Băng Thanh