Chùm thơ của Nhà Bác học Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn 黎貴惇
Lê Quý Đôn 黎貴惇 (1726-1784) hiệu Quế Đường 桂堂, tự Doãn Hậu 允厚, là quan của nhà Hậu Lê đồng thời có thể coi là một nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực. Ông sinh ngày 5 tháng Bảy năm Bính Ngọ niên hiệu Bảo Thái thứ 7 (tức ngày 2-8-1726), quê tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và mất ngày 14 tháng Tư năm Giáp Thìn (2-6-1784) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45. Lê Quý Ðôn là con trai thứ của ông Lê Trọng Thứ là tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (1721) và làm quan đến chức Hình Bộ thượng thư, được phong tước Hầu.
Thuở nhỏ, ông có tên là Danh Phương, sau đổi thành Quý Ðôn, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Khi còn bé, Lê Quý Ðôn đã nổi tiếng là thần đồng. Nhiều sách chép tiểu sử của ông có ghi: năm tuổi đã đọc được nhiều bài Kinh thi, mười tuổi đã có thơ …
Năm 1762, Lê Quý Ðôn về triều được thăng chức Hàn lâm viện Thừa chỉ. Ông lập Bí thư các và dâng sớ xin thiết lập pháp chế để trị dân nhưng không được triều đình chấp thuận và bổ ông làm Tham chính Hải Dương. Năm 1765, ông từ quan xin cáo hưu về sống nơi quê nhà, viết sách. Năm 1767, Trịnh Doanh qua đời, Trịnh Sâm nối ngôi Chúa, Lê Quý Ðôn được phục chức Thi thư và tham gia biên soạn Quốc sử kiêm chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1770, ông được thăng chức Công bộ Hữu thị lang. Mùa xuân năm 1776, ông được bổ làm Hiệp trấn, Tham tán quân cơ ở xứ đàng Trong. Năm 1778, ông được bổ nhiệm chức Hành tham tụng nhưng cố từ và xin được đổi sang võ ban. Ông được trao chức Hữu hiệu điểm, quyền Phủ sự, phong tước Nghĩa Phái hầu. Năm 1781, ông được sung chức Quốc sử Tổng tài. Năm 1783, ông đi Hiệp trấn Nghệ An, không lâu sau thì mất.
Sau đây là chùm thơ của Cụ :
Rắn đầu rắn cổ
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà!
Rắn đầu biếng học quyết không tha.
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vết roi da.
Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!
Cổ Lộng thành
Vạn vật suy di tứ bách thu
Qua đằng đậu mạn phóng xuân nhu
Bích ba dĩ tẩy Trần vương hận
Thanh thảo nan già Mộc Thạnh tu
Hoàng độc vũ dư canh cổ kiếm
Hàn cầm nguyệt hạ táo tàn lâu
Phong cương hà sự cân khai thác?
Nghiêu Thuấn đương niên chỉ cửu châu!
Đề Từ Thức động
Văn đạo thần tiên sự diểu mang,
Bích Đào động khẩu thái hoang lương.
Càn khôn nhất hạt cùng Từ Thức,
Vân thuỷ song nga lão Giáng Hương.
Thạch động hữu thanh khao hiểu nguyệt,
Diêm điền vô vị nát thu sương.
Thế nhân khổ tác Thiên Thai mộng,
Thuỳ thức Thiên Thai diệc hí trường.
Gia Cát Lượng
Long cương nằm khểnh hát nghêu ngao,
Vì cảm ơn sâu biết tính sao!
Hai biểu ra quân lòng đã tỏ,
Tám đồ bày trận giá càng cao.
Tam phân gặp buổi đương tranh vạc,
Ngũ trượng ngờ đâu bỗng tối sao.
Miếu cũ ngày nay qua tới đó,
Tấc lòng khởi kính biết là bao!
Dũng Liệt giang thượng
Qun đạo tuỳ giang chuyển phục oanh
Khinh phong phất lãng bích văn sinh
Dao dao Tam Đảo ngang thiên tập
Phủ thị quần sơn tự tống nghinh
Độ Lương Phúc tiểu giang
Tiểu giang hoành nhập Nguyệt giang lưu
Nhất loát mao am cổ độ đầu
Thiên khoát vân bình thu sắc động
Đường đường Tam Đảo nhãn tiền thu
Du Bích Đào động
Hải thượng quần tiên sự diểu mang,
Bích Đào động khẩu cửu hoang lương.
Kiền khôn nhất hạt cùng Từ Thức,
Vân thuỷ song nga lão Giáng Hương.
Thạch cổ hữu thanh xao hiểu nguyệt,
Sa diêm vô vị thấp thu sương.
Thế nhân khổ tác Thiên Thai mộng,
Bất tưởng Thiên Thai diệc hý trường.
Trủ Hoà Lạc
Dao dao chỉ viễn thôn
Xuất hiểm đắc bình nguyên
Dịch đạo đa mao ốc
Nhân gia bán trúc phiên
Sơ lâm hoàn quyện điểu
Tiễu bích há hàn viên
Bưu đệ niên niên khổ
Dân tình bất nhẫn ngôn
….. Theo văn học sử