Chùm thơ của Cụ Đồ Chiểu
CHÙM THƠ CỤ NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
Nguyễn Đình Chiểu 阮廷沼 (1/7/1822 – 3/7/1888) tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ (sau khi mù lấy hiệu Hối Trai), sinh tại làng Tân Khánh, tổng Bình Trị thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, mất ở làng An Đức, tổng Bảo An, quận Ba Trị, tỉnh Bến Tre. Cha là Nguyễn Đình Huy, mẹ là Trương Thị Thiệt. Ông là con cả của bà Thiệt, tuy vậy thuộc dòng thứ của ông Huy. Dòng chính của ông Huy với bà Phan Thị Hữu có 2 con: Đình Lân và Thị Phu. Bà họ Trương có 7 con: các em của ông Đình Chiểu là Thị Thục, Thị Nữ, Thị Thành, Đình Tựu, Đình Tự, và Đình Huân.
Ông đỗ tú tài trong kỳ thi hương 1843 tại Gia Định. Năm 24 tuổi ông ra Huế để thi hội dọc đường nghe tin mẹ mất (10-12-1848) ông phải trở về cư tang. Trên đường về ông bị bệnh, mù hai mắt. Ông học được nghề thuốc từ thầy thuốc Trung. Năm sau…
ĐIẾU PHAN CÔNG TÒNG
Thương ôi! người ngọc ở Bình Đông
Lớn nhỏ trong làng thảy mến trông.
Biết đạo khác bầy con mắt tục
Dạy dân nắm giữ tấm lòng công.
Đặng danh vừa rạng bề nhà cửa,
Vì nghĩa riêng đền nợ núi sông.
Một trận trải gan trời đất thấy,
So xưa nào thẹn tiếng anh hùng
Điếu Trương Định
Trong Nam tên họ nổi như cồn,
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn.
Dấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷ[1],
Hơi gươm thêm rạng thể hoàng môn[2].
Ngọn cờ ứng nghĩa[3] trời chưa bẻ,
Cái ấn bình tây[4] đất vội chôn.
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ,
Lâm dâm ba chữ điếu linh hồn.
*Chú thích:
Quỷ trắng, ám chỉ quân Pháp.
Chức quan giữ việc chầu chực bảo vệ vua.
» Có 1 bài cùng chú thích:
- Lệ nhân hành(Đỗ Phủ)
[Vì nghĩa mà đứng lên đáp lời non núi.
ĐƠN ĐAO PHÓ HỘI
Hiểm nguy đâu núng chí anh hào,
Phó hội mình đeo một lưỡi đao.
Chén rượu vội vàng khi tiếp rước,
Ngọn gươm thong thả lúc ra vào.
Oai hùm gặp gió đưa hơi mạnh,
Lũ chó rùng mình nép trí cao.
Theo gót Kinh Châu nên nghiệp cả,
Nghìn năm còn để tiếng vườn đào.
ĐƯA CHỒNG
Nghìn dặm lương nhân vó bạch câu,
Tràng đình xăn vắn nước non thâu.
Tay nâng chén ngọc lòng khăn khắn,
Mắt ngó người thương dạ đắn đo.
Ôm gối riêng than ngày tháng hiếm,
Tách vời thêm hận cỏ cây dàu.
Non sông đã vậy thôi thời vậy,
Mặt đất ven trời chí trượng phu.
HOA SEN LỖI THÌ
Sen hỡi là sen! tiếng chẳng hèn,
Thấy sen lỡ vận tiếc cho sen.
Ngậm cười gió hạ thơm nhiều thuở,
Đua nở hồ thu trót mấy phen.
Gương mặt bất phàm đâu đặng biết,
Bèo tai vô dụng gọi rằng quen.
Phải mà sinh gặp nơi tiên cảnh,
Lá rộng cao che khắp các bèn.
LĂNG MẪU TỐNG XỨ
Hoàng hoa mấy dặm điệp tin qua,
Xin nhắn Vương Lăng bỏ chuyện nhà.
Đầu đội trời Lưu thờ kẻ lớn,
Hơn về đất Hạng thấy đàn bà.
Thảo ngay khuyên chớ hai lòng trẻ,
Còn mất màng chi một phận già.
Ngựa trạm riêng đưa lời thiết gửi,
Trong quân hùm hổ khó lân la.
TÚ TÀI CHIỂU TỰ THUẬT
Đã đành trôi nổi tấm thân bèo,
Mình nghĩ lòng mình dám nói leo.
Đánh xé sau khi cò mổ vọp,
Sụt trồi đâu dám ốc mang rêu.
Cửa rồng muôn dặm may còn nhóm,
Bến Nghé năm canh quạ hãy kêu.
Chén rược xóm riềng cho cũng uổng,
No sau xin để mặt ăn heo.
Nguyễn Đình Chiểu