Chùm thơ của Chi hội Minh triết Nguyễn Trãi Hà Đông , Hà Nội
BẠCH THỦY TIÊN
Tiên nữ sáng nay giáng hạ trần
Mười nàng bạch thủy tỏ tình thân
Hương buông nhè nhẹ lời thôi thúc
Nhạc thả êm đềm giọng ái ân
Đại sảnh âm thanh như vũ hội
Thiền viên ánh sáng hệt phòng vân
Không gian đầy ắp hồn thơ mộng
Để vậy hương lòng lắng vọng ngân.
HY VỌNG
Đôi vai nhức buốt suốt đêm thâu
Thấu cảnh bi ai quặn nỗi sầu
Tìm đến nơi nao vơi ngán ngẩm
Xem ra chốn Viện bớt lo âu
Thuốc men xoa bóp lan cơ thể
Xung điện châm tiêm tỏa phép mầu
Bác sĩ bệnh nhân vui chữ bệnh
Toàn thân bình phục chắc bền lâu.
Trần Xuân Ất
TẾT CỦA NHÀ NÔNG
Lộc biếc chồi non nắng dịu phơi
Ngổn ngang việc cũ đã qua rồi
Chợ hoa đông đúc bên hè phố
Lễ hội tưng bừng mở khắp nơi
Câu hát trao duyên nghe thoáng đượm
Lời thơ tặng bạn thấy bồi hồi
Xuống đồng vào vụ nhanh tay cấy
Ai bảo tháng giêng được thảnh thơi.
QUÊ HƯƠNG
(Cảm nhận thơ Minh Lộc)
QUÊ gốc Diễn Châu nhớ khoảng trời
HƯƠNG nồng vẫn đượm sắc hồng tươi
ĐẤT mầu nuôi dưỡng bao mầm sống
NƯỚC mắt trào dâng mấy sự đời
TÌNH cảm gia đình luôn gắn kết
YÊU thương bạn hữu chẳng xa rời
MINH công phải trái lòng thư thái
LỘC biếc vườn ươm hạt nẩy chồi.
KÝ ỨC
Hanh heo lác đác lá vàng rơi
Trái chín đưa hương tựa mọc mời
Gợn bóng sen hồng ong mải lượn
Qua mùa phượng tím bướm vờn chơi
Nhịp cầu Ô Thước tình day dứt
Nốt nhạc Ngưu Lang nghĩa mặn mòi
Thi thoảng giọt Ngâu làm gợn sóng
Đan cài ký ức cứ đầy vơi.
Nguyễn Thị Diếp
GIÀ THÍCH ĐI CHƠI
Tuổi già chồn cẳng vẫn đi chơi,
Nhật, Thái, Sing, Hàn, … được mấy nơi.
SA mạc lầu cao trên bãi CÁT, (1)
THIÊN môn (2) hốc lớn giữa lưng TRỜI. (3)
Lý Sơn, Côn Đảo,… tình sâu đậm,
Đà Lạt, Hà Giang, … cảnh tuyệt vời.
Đắm đuối Cà Mau cùng Phú Quốc,
Tuổi già còn sức lại đi chơi.
Đinh Nho Hồng
(2) Thiên Môn tức Cổng Trời ở Trương Gia Giới (Trung Quốc)
CHƠI CHỮ: (1) SA 沙 là CÁT; (3) THIÊN 天 là TRỜI
PHÁC CẢNH KONTUM
Già làng bên bếp lửa nhà rông
Dưới bóng cây cao rộn tiếng cồng
Hoành tráng vang lừng đài Chiến thắng
Thanh bình kỳ vĩ nước Rơ Poong
Măng Đen – “Đà Lạt” rừng hoa thắm
Pa Sỹ – “Nàng thơ” dải lụa trong
Hồ, thác gieo vần bao nữ sĩ
Chông chênh “sống ảo” bước ngang sông.
Đinh Nho Hồng
TỨC CẢNH PLEIKU
Sớm chiều chuông gió vọng trên không
Văng vẳng triền miên thỏa nỗi lòng
Xanh biếc “Nàng thơ” bên núi lửa
Trong lành “Đôi mắt” giữa rừng thông
Rượu cần làng Ốp men thơm ngọt
Chùa núi Minh Thành mái vút cong
Hoa trắng cà phê tràn đất đỏ
Thanh bình, chuông gió vọng trên không.
Đinh Nho Hồng
SỐNG VUI KHỎE
Tuổi cao sức giảm lẽ thường thôi
Phải sống sao cho thuận đạo trời
Luật nước kiên trinh lòng dạ giữ
Khuôn nhà mẫu mực cháu con soi
Nghĩa tình đồng đội luôn hòa hiếu
Nề nếp gia phong mãi rạng ngời
Thể dục dưỡng sinh chăm tập luyện
Sống vui, sống khoẻ, sống yêu đời.
Nguyễn Thu Hưởng
THÁNG NĂM
Hè về ước hẹn những tin vui
Nắng ấm bừng lên, rét đã lùi
Phượng vĩ hồng tươi bay trước gió
Bằng lăng tím ngắt nở bên đồi
Chia tay mắt bạn đầy lưu luyến
Gắn bó lòng ai những ngậm ngùi
Để lại yêu đương lòng khắc khoải
Hè về ước hẹn những tin vui.
Nguyễn Thu Hưởng
THU XƯA
Tán lá xanh tươi đã úa vàng
Ve sầu tắt ngấm gió thu sang
Heo may lành lạnh trời xanh biếc
Thăm thẳm sườn non trải nắng vàng.
Nhớ buổi sớm mai ấm nắng vàng
Bên hồ trong vắt tiết thu sang
Dòng người thả bộ trên bờ thoáng
Hít thở vươn vai dưới nắng vàng.
Nguyễn Thu Hưởng
NGƯỜI LÍNH CỤ HỒ
Thanh xuân sức trẻ quyết hy sinh
Giải phóng quê hương những chiến binh
Lửa đạn xông pha khi giặc giã
Cày sâu cuốc bẫm lúc an bình
Cây cao bóng rợp lòng dân ấm
Trụ cột gương soi nặng nghĩa tình
Phấp phới cờ bay ngoài biển đảo
Mang hồn Tổ quốc dáng anh linh.
Tạ Văn Khá
XUÂN SANG
Quê hương rạo rực lúc xuân sang
Tiếng sáo ngân trên thảm lúa vàng
Tíu tít đoàn người đi mở lối
Ầm ầm máy gặt chạy hàng ngang
Rơm phun chất đống lòng phơi phới
Thóc chảy thành dòng dạ xốn xang
Phấn đấu nhiều năm công nghiệp hóa
Quê hương rạo rực lúc xuân sang.
Tạ Văn Khá
TRỜI TRỞ GIÓ
Đêm qua gió bấc đã tràn về
Bụi cuốn tung trời thật gớm ghê
Vài túp lều tranh bung mái tốc
Mấy nhà tường đất bật phên che
Mưa như thác đổ cành nghiêng ngả
Gió tựa dùi đâm rét tái tê
Lá trút ào ào cây ngã đổ
Đông nào nhẹ tránh lúc cuồng phê.
Tạ Văn Khá
KHÍ PHÁCH TỔ TIÊN TRẦN
Nêu cao khí phách tổ tiên Trần
Mười bốn vương triều đức nghĩa nhân
Đánh lũ Nguyên Mông thề hiển tướng
Diệt bầy giặc Thát báo cường ân
Thái Tông sáng dạ rằng khai quốc
Đức Thánh ngời danh bởi xuất thần
Lừng lẫy cha ông từng thắng trận
Đông A Hào Khí rạng muôn lần.
BẮT GẶP
Bướm lượn tìm hoa ở khắp làng
Ong thèm hút mật giữa rừng hoang
Trèo lên sườn núi dê thờ thẫn
Ngoái xuống bờ sông vịt ngỡ ngàng
Khỉ nói ôn tồn gom ý tứ
Trâu cười rạng rỡ mến đài trang
Nhìn kia bác ngựa trưa đòi ngủ
Mấy chú chim con lướt vội vàng.
ẤP Ủ
Con tim ấp ủ chọn đường duyên
Hẹn những ngày sau tỏ nỗi nguyền
Bởi giữ ân tình trao ước nguyện
Làm cho cuộc sống được bình yên
Lần thưa thiếp quyện làn môi thắm
Bữa gửi chàng đưa cặp mắt huyền
Mới hiểu lòng nhau gìn nghĩa trọng
Êm đềm lãng tử gặp thuyền quyên.
Trần Thị Khánh
CHIỀU HÈ LỊCH SỬ
Chiều hè lịch sử đại quân ta
Giải phóng Điện Biên khúc nhạc hoà
Kéo pháo trường kỳ ta đánh tới
Ẩn hầm cứ điểm địch chui ra
Nước Pháp oai cường xưng mẫu quốc
Việt Nam bé nhỏ giữ non nhà
Cờ trắng xin hàng Đờ Cát nhục
Sao vàng phấp phới bản tình ca.
Nguyễn Thị Hồng Nhung
SÁNG MÃI TÊN ANH
Sáng mãi tên anh thuở bấy giờ
Điện Biên giải phóng chớp thời cơ
Tướng Văn đánh chắc lưu non Việt
Đờ Cát xin hàng vỡ giấc mơ
Chủ nghĩa thực dân chìm Đế Quốc
Tinh thần cách mạng nổi hoa cờ
Bảy mươi năm trọn hồng trang sử
Phố núi reo ca rộn tiếng thơ!
Nguyễn Thị Hồng Nhung
QUÊ HƯƠNG ĐAN PHƯỢNG
Đan Phượng quê hương đẹp xứ Đoài
Cánh đồng thẳng cánh dệt ban mai
Trai tài việc thạo luôn chăm chỉ
Gái đảm nghề hay lại miệt mài
Ngõ phố mở mang đường xá đẹp
Ruộng vườn thu hoạch trái cây sai
Sáo diều hát nhạc từ muôn thuở
Đan phượng quê hương đẹp xứ Đoài.
Nguyễn Thị Hồng Nhung
HAI CHỊ EM
Hai chị em mình mẹ đẻ ra
Một người Tháng Chạp, một giêng Ba
Lớn lên mỗi cảnh theo đời sống
Thuở nhỏ bên nhau giữ nếp nhà
Kỉ niệm bao lâu thời ấu trĩ
Lưu gìn đến lúc tuổi đề đa
Đường thi mở hội cùng sinh hoạt
Xướng họa giao lưu mãi chẳng già.
Đinh Kim Oanh
TUỔI ĐỀ ĐA
Cám cảnh bước vô buổi xế tà
Dù sao là cũng tuổi đề đa
Mạch vành, huyết áp đeo theo mãi
Mỡ máu, tiểu đường chẳng chịu xa
Tám bốn xuân rồi vừa vượt ngưỡng
Bao nhiêu thu nữa cũng thông qua
Dầm mưa dãi nắng từng bươn chải
Không để phiền lòng đến mẹ cha.
Đinh Kim Oanh
TAY GÃY, TỨ THƠ CÒN
Tay gãy, hụt chân bị ngã ngồi
Lăn quay, cũng chỉ biết kêu trời
Ngày ngày nằm bẹp sao vui được
Tháng tháng kẹp băng thật khổ thôi
Mới tám tư xuân xương đã quỵ
Còn dăm vài ý tứ không vơi
Thơ thẩn giúp cho đời vẫn thắm
Chỉ tại lơ ngơ bị ngã ngồi.
Đinh Kim Oanh
TA TỰ CHÚC TA
Rượu chúc riêng ta với Tết này
Duyên tình bạn hữu ấm bàn tay
Đời cho mạnh khỏe còn chơi đẹp
Mắt được tinh nhanh để tỏ bày
Nguyện ước xuân về cần tỉnh táo
Cầu mong lộc hưởng cứ hăng say
Mừng mình trí lực luôn đầy ắp
Mọi việc thành công nở mặt mày
Nguyễn Đức Sảng
BUỔI GẶP ĐẦU XUÂN
Xuân sang bạn hữu Hội thơ Đường
Gặp gỡ giao lưu thật mến thương
Trịnh trọng mừng nhau tròn tuổi thọ
Hân hoan chúc tụng mãi khang cường
Huynh ngâm bát cú bài uyên bác
Muội hát đôi câu vẻ vấn vương
Chén rượu nhâm nhi chưa muốn vãn
Thôi đành xa nhé Hội thơ Đường.
Nguyễn Đức Sảng
HÀNH QUẢ TRỒNG HOA
Trồng vun xới bón biết bao ngày
Đã thấy mầm non trước gió lay
Hé nụ đung đưa bên nắng sớm
Xòe bông lả lướt trước mưa dày
Hương thơm quyến rũ đang lan tỏa
Sắc thắm tươi màu thật đắm say
Đứng ngắm tần ngần bên hoa nở
Trong lòng thỏa thích bõ công này.
Nguyễn Đức Sảng
CÁNH BÈO
Cánh bèo phiêu bạt đến nơi nao
Lạc giữa dòng khơi sóng dạt dào
Bão nổi cuộc đời luôn vất vưởng
Mưa dồn thân phận cứ lao đao
Duyên cơ rễ bám cây xanh tốt
Được số bông cài nhuỵ thắm sao
Khắp nẻo muôn nơi đều đến được
Sắc hoa rực rỡ quý nhường nào.
Thái Minh Tuyến
TRỞ LẠI QUÊ NHÀ
Trở lại quê nhà thoả ước mơ
Bến sông lặng lẽ giữa đôi bờ
Mong chờ bạn cũ còn vời vợi
Trông đợi người xưa vẫn mịt mờ
Nhìn cánh buồm đơn tâm khắc khoải
Ngóng con thuyền lẻ dạ bơ phờ
Vầng trăng soi bóng bao hoài niệm
Giá gặp thân tình trọn ước mơ.
Thái Minh Tuyến
KỶ NIỆM MỘT THỜI
Phượng hồng thắp lửa cuộc chia xa
Bè bạn bên nhau đến mặn mà
Mong giữ tình sâu thêm thắm thiết
Muốn gìn nghĩa nặng mãi chan hoà
Sân trường in bóng bao nam nữ
Phòng học ghi hình những tuổi hoa
Ước nguyện ngày sau mình gặp nhé
Nồng nàn trìu mến đượm tình ta.
Thái Minh Tuyến
KHẤN VỌNG NGÀY GIỖ TỔ
Nhớ đến Vua Hùng bái vọng xa
Cầu cho đất nước được an hòa
Muôn dân mạnh khỏe giầu năng lượng
Mọi chốn yên bình ngập khúc ca
Mở trí cầu tài thêm tuấn kiệt
Khai tâm vọng đức giảm gian tà
Dùng người cẩn trọng không xem nhẹ
Kế sách lâu dài Tổ quốc ta!
Nguyễn Học Từ
Y NA NGÀY ẤY
Nhớ ngày giã bạn ở Y Na
Kết chạ giao lưu thật mặn mà
Gái giỏi thẹn thùng chưa lúng liếng
Trai tài mạnh mẽ đã ngân nga
Khăn thâm đậu dí tình son sắt
Nón thúng quai thao nghĩa đậm đà
Nước chảy lơ thơ thuyền bỏ lái
Sông Cầu ký ức vẫn chưa xa.
Nguyễn Học Từ
TẾT HÀN THỰC
Chuyện xưa trăm trứng mẹ Âu cơ
Dạy bảo cháu con chớ hững hờ
Xuống biển đừng quên cha lận đận
Lên rừng chớ để mẹ bơ vơ
Nhiều tiền phí nếu lòng trung nhẹ
Lắm của thừa mà chữ hiếu ngơ
Biết đủ cho vừa ai cũng trọng
Ra khơi hãy nhớ lạch về bờ.
Nguyễn Học Từ
TRĂNG ƠI ĐỪNG KHUYẾT
Chênh chếch thuyền kia thiếu mái chèo
Lung linh tỏa bóng cứ cheo leo
Canh khuya nhè nhẹ bơi trong nước
Chiều muộn tung tăng lướt đỉnh đèo
Thi sĩ say sưa bao ước nguyện
Nàng thơ ngơ ngẩn luống trông theo
Mơ trời lồng lộng trăng đừng khuyết
Lấp lánh ngậm đầy gió nhạc reo.
Hà Vọng
CHIA TAY MÙA THU
Chiều ấy thu đi gợi nhớ mong
Trăng vàng thổn thức phía trời Đông
Khóm tre lá rụng làn sương mỏng
Luống cúc hoa soi vạt nắng hồng
Thấp thoáng cánh cò như vẫy gọi
Ngân nga sáo trúc điệu chờ trông
Chia tay đêm lạnh bao lưu luyến
Xào xạc heo may khúc nhạc lòng.
Hà Vọng
NHỚ HOA ĐÀO
Bâng khuâng đông lạnh nhớ hoa đào
Hơi ấm chợt về thỏa ước ao
Mưa tắm chồi non khơi lộc biếc
Gió vờn nụ mới đậu cành cao
Nàng mơ bích thắm bừng khoe sắc
Chàng đợi hồng phai thỏa kết giao
Tết đến xum vầy vui náo nức
Vườn xuân rực rỡ nét thanh tao.
Hà Vọng
THƠ XƯỚNG HỌA
(TS Đinh Nho Hồng)
Một bài thơ họa đương nhiên phải họa theo vần của bài xướng.
Trong một bài thơ nói chung, có vần chân (cước vận) và vần lưng (yêu vận).
Vần chân được gieo ở cuối câu thơ. Vần lưng được gieo vào giữa câu thơ.
Khi nói đến vần, thì có chính vận, thông vận, cưỡng vận, lạc vận. Chính vận là những vần đồng âm, hoàn toàn ăn khớp với nhau. Thông vận là những vần cùng nhóm, hơi khác nhau một chút, nhưng có thể tương thông với nhau. Cưỡng vận là vần ép, cưỡng bách, không liên thông với nhau, nhưng có thể chấp nhận được, tạm dùng được. Lạc vận là các từ vần không ăn nhập gì với nhau cả, không chấp nhận được.
Khi nói đến thơ xướng họa, không những xướng họa thơ luật Đường, mà có thể họa bất cứ thể loại thơ nào. Trong bài viết này, chủ yếu bàn về xướng họa thơ luật Đường. Bên cạnh đó, cũng trình bày thêm xướng họa thơ luật Đường biến thể, là Lục bát tám câu và Song thất lục bát tám câu.
Thơ thất ngôn bát cú có 5 vần đều là vần chân, trừ thơ trốn vận, độc vận, thủ vĩ ngâm.
Thơ lục bát có cả vần chân và vần lưng. Như vậy, một bài Lục bát tám câu có 8 vần chân và 4 vần lưng. Còn một bài Song thất lục bát tám câu có 8 Vần chân và 6 Vần lưng, nhiều hơn thơ Lục bát tám câu 2 Vần lưng. Nếu ta coi câu đầu của bài Song thất lục bát tám câu chỉ tính đến Vần chân, không tính Vần lưng, thì có 5 Vần lưng.
Qua đó ta thấy, họa một bài thất ngôn bát cú, chỉ cần theo đúng 5 vần của bài xướng (không kể thơ trốn vận, độc vận và thủ vĩ ngâm). Nếu họa một bài Lục bát tám câu, phải theo đủ 12 vần; và họa một bài Song thất lục bát tám câu phải họa đủ 14 vần, ít nhất cũng là 13 vần.
Vì thơ Lục bát tám câu và Song thất lục bát tám câu sáng tác thơ lục bát và song thất lục bát trên cơ sở luật thơ Đường, nên, theo đúng luật thơ Đường, trong bài họa không được mắc lỗi nhại từ áp vận. Như vậy là có 12 từ áp vận phải tránh trong thơ Lục bát tám câu và 13 hoặc 14 từ áp vận phải tránh trong thơ Song thất lục bát tám câu.
Trong thơ luật Đường có họa phóng vận và họa hạn vận. Họa hạn vận khác hẳn với lối chơi xướng họa ta vẫn thường gặp.
HỌA PHÓNG VẬN là phỏng theo ý và vần của bài xướng để họa. Từ xưa đến nay, người chơi thơ Đường vẫn thường xuyên họa phóng vận. Bài họa phải tuân theo chủ đề của bài xướng; hoặc bổ sung thêm, hoặc mở rộng thêm ý của bài xướng; cũng có thể trái hẳn lại với ý bài xướng (họa phản đề). Nếu bài họa không tuân theo chủ đề bài xướng, thì gọi là họa tá vận (mượn vần). Dựa theo thứ tự vần của bài xướng, có thể chia bài họa theo các dạng sau đây: Họa nguyên vận, họa đảo vận, họa hoán vận, họa loạn vận.
Họa nguyên vận là bài họa hoàn toàn tuân theo thứ tự các vần của bài xướng từ trên xuống dưới. Họa đảo vận là đổi thứ tự các vần của bài họa từ dưới lên trên, so với vần của bài xướng. Họa hoán vận là đổi thứ tự hai vần cho nhau. Họa loạn vận là thứ tự các vần của bài họa hoàn toàn không tuân theo thứ tự vần bài xướng.
Một điều cần hết sức lưu ý là, khi bài xướng được sáng tác theo ngón chơi thơ nào, ví dụ thơ khoán thủ, khoán tâm, bát vĩ đồng âm, tung hoành trục khoán, thuận nghịch độc, ngũ độ thanh, mỹ lục thanh, lục bát tám câu, song thất lục bát tám câu, v.v…, thì bài họa cũng phải theo đúng ngón chơi đó.
Họa tá vận là mượn vần của bài xướng để sáng tác bài họa không theo chủ đề bài xướng, có nội dung khác, không liên quan gì đến bài xướng. Vì thế, có ý kiến cho rằng, đây không phải là một bài họa, mà chỉ là dùng vần của bài xướng để diễn đạt một vấn đề khác hẳn. Ý kiến khác lại cho rằng, đã gọi là “họa” thì kiểu gì cũng là một bài họa và phải được coi là một dạng họa phóng vận. Nhiều người vẫn sáng tác thơ dạng này với quan điểm dù có được coi là bài họa phóng vận hay không thì cũng là một kiểu chơi thơ thú vị. Xin xem ví dụ sau đây:
THU ĐIẾU
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nguyễn Khuyến
VÀO CANH BẠC
(Họa tá vận và hoán vận)
Canh bạc lao vào túi cháy veo
Ra về thất thểu, xác tong teo
Quanh năm suốt tháng thua dồn dập
Nửa bữa đôi lần được tị teo
Nhà cửa đất đai đều biến sạch
Công danh địa vị cũng bay vèo
Lưu manh, cụ lớn cùng thân phận
Làm bác bần xong hóa bọt bèo.
ĐNH
Như ta biết, trong thơ luật Đường, có thơ thể bằng và thơ thể trắc. Về hình thức, nếu bài xướng thể bằng, bài họa thể trắc và ngược lại, thì bài họa đó sẽ được đánh giá cao hơn là bài họa cùng thể với bài xướng. Tuy bài họa cùng thể bằng – trắc với bài xướng vẫn không bị coi là phạm luật hay mắc bệnh và trong thực tế có lẽ khoảng một nửa các bài họa của hầu hết các nhà thơ là cùng thể bằng – trắc với bài xướng; nhưng nên cố gắng khác thể, lúc đó sẽ được đánh giá cao hơn bài họa cùng thể.
Trong ví dụ trên, bài “Thu Điếu” thể bằng, bài “Vào canh bạc” thể trắc.
Nguyên tắc cơ bản của thơ xướng họa là bài họa phải lặp lại đúng và đủ tất cả các vần của bài xướng, cụ thể trong bài bát cú có 5 vần.
Trong trường hợp người họa xin được “nương tay” thay một vần nào đó của bài xường, thì người ta thường gọi là “nương vận”, nhưng thường không được chấp nhận là bài thơ họa. Về nguyên tắc, không thể “nương tay” được. Vì khi đã thay vần khác, thì có nghĩa là đã “lạc vận” khỏi bài xướng, trái với luật xướng họa.
Để dễ hiểu hơn, xin lấy hai bài thơ sau đây làm ví dụ (Trong đó, bài “Qua Đèo Ngang” ở thể trắc và bài “Tình quê” thể bằng):
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Bà Huyện Thanh Quan
TÌNH QUÊ
Trèo lên Thiên Nhẫn(*) buổi chiều tà
Thắp nén hương trầm, đặt nhánh hoa
Lặng lẽ ngậm ngùi bên mộ tổ
Bâng khuâng lưu luyến chốn quê nhà
Thiết tha mãi mãi bền tâm chí
Mong mỏi đời đời vững thế gia
Năm tháng trôi qua, tình để lại
Xa xôi nhung nhớ, bạn cùng ta.
(*)Thiên Nhẫn: Dãy núi ở Hà Tĩnh.
ĐNH
Ta thử phân tích hai bài thơ“Qua Đèo Ngang và “Tình Quê” trên đây. Ở đây không dám phân tích về nghệ thuật, vì không ai dám so sánh với thơ của bà Huyện Thanh Quan. Chỉ xin nói đến học thuật, đến cách chơi thơ, để xem bài “Tình quê” có đáng gọi là một bài họa không, có nên gọi là một bài họa nương vận không, nếu là họa thì là họa tá vận hay phóng vận? (Một bài nương vận có thể là tá vận hoặc phóng vận).
Trước hết, ta xem vần. Vần “gia” không phải là “da”, nên không được gọi là họa. Nếu “nương tay” một chút, thì thấy “gia” là nhà, mà bà Huyện Thanh Quan cũng nói đến “nhà”, đồng thời khi đọc lên, âm cũng giống nhau. Nhưng như vậy cũng khiên cưỡng lắm, vì viết khác nhau! Xét cho cùng, nếu hai bài thơ có dạng và ý gần gũi như vậy, mà cũng không được coi là xướng họa, thì đương nhiên không còn khái niệm “họa nương vận” nữa.
Giả dụ được coi là họa nương vận, thì đây là một bài họa tá vận hay phóng vận? Bài “Tình quê” cũng nói lên tâm tư, tình cảm của tác giả, tuy khác hẳn với hoàn cảnh và ý thơ của bà Huyện Thanh Quan, nên có thể coi là họa tá vận, nhưng nghiêng về họa phóng vận nhiều hơn.
HỌA HẠN VẬN:
Họa hạn vận chỉ có đề thách họa (mời họa), thông thường không có bài thơ xướng như khi họa phóng vận. Trong đề mời họa hạn vận có các quy định bắt buộc, người họa thơ phải tuân theo. Các quy định do người mời họa đặt ra. Ví dụ, ngoài nội dung và 5 vần, nhiều khi người thách họa còn đưa thêm các yêu cầu khác, thường là đưa ra một số từ nhất định, bắt buộc phải có đủ trong bài họa, không được thiếu một từ nào. Đôi khi, người ra đề không nói rõ là các vần trong bài phải tuân theo thứ tự nhất định. Nhưng phần lớn các đề đều quy định 5 vần phải theo thứ tự cho trước. Việc yêu cầu 5 vần phải theo đúng thứ tự, mà không được đảo vận, hoán vận…, nói lên tính nghiêm khắc của đề, phần nào làm khó thêm cho người họa.
Ngày nay ít người chơi thơ xướng họa dạng này. Trước đây, thường là các văn nhân tổ chức những cuộc thi thơ hoặc thách đố nhau họa hạn vân.
Sau đây, xin lấy hai đề thơ khá nổi tiếng của các cụ xưa để minh họa.:
Đề 1:
Nhà báo, dịch giả nổi tiếng Phan Kế Bính (1875 – 1921) đưa ra đề thách họa sau đây trong một cuộc thi thơ hạn vận:
– Nội dung đề thơ:
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô
– Hạn 5 vần theo thứ tự sau: XÔ – CÔ – VÔ – Ô – RÔ.
Trước hết, ta hãy thử phân tích đề thơ:
Nghĩa đen, nghĩa bóng câu thứ nhất “Trống treo ai dám đánh thùng” chắc không cần phải bàn.
Xin phân tích câu thứ hai: “Bậu” là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai. “Bậu” mà “không dám”, thì còn ai “dám” vào đây nữa. Chứng tỏ, “bậu” là người có thế lực, đại loại là cỡ “sếp” gì đó. Hoặc có thể “bậu” là tay liều mạng, “coi trời bằng vung”. Vậy, xin phép các cụ xưa được trình bày bài họa hạn vận dưới đây, đồng thời cũng mang dáng dấp của thơ phú đắc:
BẬU CŨNG CHỊU RỒI
Ai thích rơi vào cảnh đẩy XÔ?
Thập thò mấy sếp hẳn chờ CÔ
Có dùi đừng tưởng mon men đánh
Không ngãi chớ hòng rón rén VÔ
Nhỡ hứng liều mình toan đẩy cửa
Thoát hèn xấu mặt phải che Ô
Trớ trêu cả bậu còn cam chịu
Thất thểu về nhà ngắm cá RÔ
ĐNH
Đề 2:
Năm 1926, Đào Sĩ Nhã đưa ra một đề thách bạn thơ Phan Mạnh Danh họa còn “khó chơi” hơn, với các điều kiện sau:
– Nội dung đề thơ: Xuân khuê
– Năm vần hạn định: CHỜ – HỜ – THƯA – TƠ – THƠ.
– Trong bài thơ phải có 19 chữ: một, hai, ba , bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.
Đề tài bài thơ là gái trẻ phòng the. Theo 5 vần hạn định và các từ cho trước, ta thấy đề tài tương đối rộng, có thể nghĩ ra khá nhiều tình huống của cô gái trong phòng the. Sau đây, xin phép các cụ xưa miêu tả về một tình cảnh như vậy:
CHỈ VÌ BÓNG ĐÁ
Mười mong chín đợi một hai CHỜ
Sáu khắc trân trân nửa khép HỜ
Sân cỏ bốn đêm ba cặp kín
Phòng the đôi lứa tám lần THƯA
Trăm ngàn cái lỗi trao bà Nguyệt
Muôn vạn thước hờn đổ lão TƠ
Ấm ức năm canh dài bảy trượng
Tấc lòng đâu dám trải vào THƠ
ĐNH
Đấy là những đề thách họa của các cụ xưa. Người yêu thơ có thể nghĩ ra nhiều kiểu chơi khác nhau. Nay ta thử họa hạn vận có bài xướng, coi như một thú chơi thơ mới được “sáng tạo”, thực chất là kết hợp họa hạn vận với họa phóng vận. Việc đưa ra bài xướng, chẳng qua chỉ có thêm một điều kiện nữa là không được lặp lại từ áp vận của bài xướng (tránh lỗi nhại từ áp vận).
Đề 1:
– Nội dung đề thơ:
Trăng sáng Cửu Long tìm Lý Bạch
Lụa đào Vạn Phúc nhớ Xuân Hương
– Hạn 5 vần theo thứ tự: CÂY, THẦY, MÂY, TÂY, ĐÂY
Bài xướng kèm theo:
CHÓI SÁNG THƠ THẦN
Đại thụ bao đời được mấy CÂY
Xuân Hương, Lý Bạch những tay THẦY
“Tửu Tiên” (1) nhảy xuống toan ôm nguyệt
“Bà Chúa” vươn dài định đọ MÂY
Cuồn cuộn dòng sông trôi Thái Thạch (2)
Lượt là áo lụa dạo Hồ TÂY
Trăm, ngàn năm vẫn vang danh tiếng
Chói sáng thơ thần tụ lại ĐÂY
ĐNH
(1) Người đời đã phong cho Lý Bạch danh hiệu “Tửu trung tiên”.
(2) Tương truyền, khi say, Lý Bạch đã nhảy xuống sông Thái Thạch để ôm chị Hằng.
Đề 2:
– Nội dung đề thơ: Dịch bệnh;
– Năm vần theo thứ tự: ĐÂY, LẦY, VÂY, TRẦY, ĐẦY;
– Bài thơ phải có đủ các từ: lỵ, tả, lao, hạch, phổi, ho, thở, viêm, sưng, loét, thể, biến, CoViD, thương hàn, sốt rét, cúm mùa.
Bài xướng kèm theo:
DỊCH BỆNH
CoViD biến thành mấy thể ĐÂY? (*)
Làm cho thế giới bị sa LẦY
Hết lao, sốt rét về đe dọa
Rồi lỵ, cúm mùa đến bủa VÂY
Viêm phổi phều phào ho khó thở
Loét da xoành xoạch gãi sưng TRẦY
Thương hàn, tả, hạch xưa từng quét
Kim cổ bao phen đã hứng ĐẦY.
ĐNH
(Còn nữa)
THƠ XƯỚNG HỌA
(Tiếp theo)
XƯỚNG HỌA CÁC KIỂU CHƠI THƠ ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI VIỆT:
XƯỚNG HỌA THƠ “NGŨ ĐỘ THANH”
Như trên chúng tôi đã lưu ý, khi bài xướng là thơ Ngũ độ thanh (NĐT), thì bài họa cũng phải NĐT, như vậy xướng họa mới chuẩn.
Sau đây là một vài ví dụ:
Ví dụ 1:
Bài xướng của Nguyễn Thị Thực:
DÒNG SÔNG THU (NĐT)
Thu về nắng lụa trải dòng sông
Một cõi lòng ai cảnh sắc hồng
Đẹp mãi thân rồng trên xứ sở
Tươi hoài phượng vĩ dưới tầng không
Câu hò mái đẩy trao tình đượm
Giọng hát đò đưa trả nghĩa nồng
Giữa thảm trời xanh vàng ánh nguyệt
Ghe, thuyền cập bến thỏa niềm trông.
Bài họa của ĐNH:
BÊN DÒNG THU (NĐT)
Sóng lụa theo làn trải quãng sông,
Bên đường ngả bóng dãy hoa hồng.
Sương vờn rặng liễu ven bờ vắng,
Bướm lượn hàng cây giữa khoảng không.
Đứng lặng nhà thơ chừng ngẫm tưởng,
Vươn dài thiếu nữ hẳn chờ trông:
Dòng thu nhẹ lướt từng rung cảm,
Những áng Đường thi đủ mặn nồng?
Ví dụ 2:
Bài xướng của ĐNH:
THỔN THỨC ĐÒ THƠ
(NĐT, Bát vĩ đông âm)
Một chiếc đò quê chở trĩu thơ,
Thuyền ai cặp bến, hẳn không ngờ?
Dù cho hạ hãy còn nhung nhớ,
Vẫn biết xuân là để mộng mơ.
Sóng vỗ bờ đê, lòng rộng mở,
Rừng reo bản nhạc, ý mong chờ.
Tình đâu bỏ đó chừng vương nợ,
Có phải tâm hồn đã quyện tơ?
Bài họa của PhanThị Diệu:
DỆT ĐƯỜNG TƠ (NĐT, BVĐÂ)
Con thuyền vững lái nặng tình thơ
Mỗi khách hành du dạ chẳng ngờ
Gửi lại thời gian từng nỗi nhớ
Mang vào ý tưởng vạn lần mơ
Câu hò điệu ví niềm vui mở
Bản nhạc lời ca cố hữu chờ
Nghĩa cử ân nồng nhân tín nợ
Gieo vần trải tứ dệt đường tơ.
XƯỚNG HỌA THƠ “MỸ LỤC THANH”
Khi bài xướng là Mỹ lục thanh (MLT), thì bài họa cũng phải MLT. Ta hãy xem ví dụ sau:
Bài xướng:
CHỐNG DỊCH (MLT)
Chống dịch cùng nhau tỏa mỗi miền
Sá gì mệt mỏi, giữ bình yên
Giáo sinh, bảo vệ soi từng ngõ
Cảnh sát, dân phòng chặn những hiên
Hiểm họa lan tràn, đâu nói hãi
Khó khăn gặp mãi, chẳng than phiền
Luật Đường góp nghĩa, càng thêm dẻo
Chiến sĩ hành trang tỏa mọi miền.
ĐNH
Bài tự họa:
GẶP GỠ LÀM CHI (MLT. Họa tá vận)
Quản chi gặp gỡ biết bao miền
Đã hẹn đành theo, chỉ muốn yên
Lũ bạn chê cười đang trước cửa
Mọi người trách cãi ở ngoài hiên
Những năm chẳng biết nên toàn ngại
Mấy bữa từng quên quả thật phiền
Lại khó tìm ra đường chỉ dẫn
Để đi đến mãi tận bao miền.
ĐNH
XƯỚNG HỌA THƠ “LỤC BÁT TÁM CÂU”
Khi bài xướng là thơ Biến thể luật Đường “Lục bát tám câu” (LBTC), thì bài họa cũng phải là thơ Biến thể LBTC với đủ 12 vần (8 vần chân và 4 vần lưng). Và cũng không được mắc lỗi nhại từ áp vận của 12 vần đó. Xem các ví dụ sau:
VÍ dụ 1:
Bài xướng của ĐNH:
VỀ SƠN HÒA (LBTC)
Quê hương vời vợi xa xăm
Mỗi kỳ vài bận về thăm Sơn Hòa
Bàu quẫy cá – Đường ngợp hoa
Xóm thôn rộn rã – Cửa nhà khang trang
Sông vương vấn – Núi mơ màng
Nhớ anh bươn chải – Ngóng chàng bôn ba
Lòng thành mong đợi xã ta
Xứng tầm văn hiến tặng quà người thân.
Bài họa của Đỗ Thị Chuyền:
THĂM QUÊ (LBTC)
Xuống xe rảo bước xăm xăm
Mấy mùa nhung nhớ ghé thăm Yên Hòa
Thu nhạt nắng, cúc rộ hoa
Người xe hối hả, đường nhà chỉnh trang
Dâu biêng biếc, lụa mỡ màng
Có cô sắc sảo cùng chàng tài ba
Trên đà đổi mới quê ta
Bức tranh đa sắc trao quà tình thân.
Ví dụ 2:
Bài xướng của Phan Thị Diệu:
THẦY CÔ VÀ MÁI TRƯỜNG (LBTC)
Thời gian ơi có ngược về
Cho ta sống lại trường quê thuở nào
Nghe bài giảng – Nhớ câu chào
Thầy ươm kiến thức – Bạn trao nụ cười
Lời cô ấm – Nắng mai ngời
Bao lần mong mỏi – Một thời ước ao
Vầng trăng cổ tích năm nao
Ngôi nhà chung ấy ngọt ngào tình thân.
Bài họa của ĐNH:
THUYỀN NHỚ BẾN (LBTC)
Bến ơi, hãy đợi thuyền về!
Rưng rưng nhớ cảnh rời quê buổi nào
Đi gió đón – Đến sông chào
Người đưa câu hỏi – Kẻ trao tiếng cười
Luồng nước biếc – Ánh mắt ngời
Từ nay cưỡi sóng – Đâu thời lội ao
Ngóng cố hương, dạ nao nao
Ai từng dứt áo nghẹn ngào dấn thân.
XƯỚNG HỌA THƠ “SONG THẤT LỤC BÁT TÁM CÂU”
Khi bài xướng là thơ Biến thể luật Đường “Song thất lục bát tám câu” (STLBTC), thì bài họa cũng phải là thơ Biến thể STLBTC với đủ 13 hoặc 14 vần. Mặt khác, cũng không được mắc lỗi nhại từ áp vận của 13 hoặc 14 vần đó. Xem ví dụ dưới đây:
Bài xướng:
NHỚ QUÊ (STLBTC)
Quê ta đó con bàu xanh ngắt,
Nước dòng La bát ngát, đầy vơi.
Nhớ sông một – Ngóng ai mười,
Lưng ong uyển chuyển – Nụ cười ngất ngây.
Qua năm tháng ơn thầy vô hạn
Trải sớm chiều kết bạn bao nơi
Tha hương mấy chục năm trời,
Bạc đầu nhớ lại cả thời xa xưa.
ĐNH
Bài tự họa:
ĐÂU DÁM COI THƯỜNG (STLBTC. Họa tá vận)
Ho sặc sụa, làu bàu, tái ngắt
Sắc lá vườn ngan ngát, nào vơi
Cơm ăn một – Nước uống mười
Nén run lẩy bẩy – Gượng cười đờ ngây
Lo sớm tối thuốc thầy đúng hạn
Nhắn đêm ngày bè bạn khắp nơi
Đến nay chỉ biết kêu trời
Mong sao khỏe lại như thời ngày xưa.
ĐNH
Một bài STLBTC có 8 Vần chân và 6 Vần lưng. Nhưng nếu coi câu đầu của bài STLBTC chỉ tính đến Vần chân, không tính Vần lưng, thì toàn bài có 5 Vần lưng. (Cụ thể, trong ví dụ trên, có thể không cần đưa vần “bàu” của câu thứ nhất vào bài họa, nhưng nếu họa cả vần này, thì có lẽ càng thú vị).
Đinh Nho Hồng