CẢM HỨNG ĐỀ TÀI PHỤ NỮ TRONG THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT . BV Mai Hoàng Khải
CẢM HỨNG ĐỀ TÀI PHỤ NỮ TRONG THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT
Mai Hoàng Khải –
Cao Bá Quát 高伯适 tự Chu Thần 周臣. Sinh 1808 tại làng Sủi, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, HN). Là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ XIX trong lịch sử văn học Việt Nam. Thi cử lận đận, ông đỗ Hương cống (cử nhân đội sổ năm 1831). Năm 1840, ông được bổ làm chức quan nhỏ Hành tẩu ở bộ Lễ. Năm 1841, ông cùng một số vị quan giám khảo phạm tội chữa quyển nâng điểm bài thi. Triều đình thời Nguyễn có thể nhận thấy giá trị của Cao Bá Quát đã tạm tha cho ông sau khi được định tội. Có thể được gửi vào một đồn quân gọi là “Quân tiền hiệu lực”, hoặc cho tham gia vào các phái đoàn ngoại giao gọi là “Dương trình hiệu lực” để lấy công chuộc tội. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc sử dụng phạm nhân trong các sứ mệnh ngoại giao và phái đoàn, Cao Bá Quát đã trải qua “đặc ân” đầy thú vị này. Đầu năm 1843, ông được tạm tha và cho đi làm phục dịch (chức Dương trình hiệu lực) trong phái đoàn vượt biển đi Indonesia, gần một năm sau thì trở về ông được tha tội. Năm 1847, ông được gọi vào triều Huế phục hồi chức tước, ít lâu sau được thăng lên làm Chủ sự. Năm 1850, ông được điều ra làm Giáo thụ phủ Quốc Oai. Ông làm Quốc sư trong cuộc nổi dậy Mỹ Lương (1854 – 1856), tử trận tại Yên Sơn năm 1855. Cuộc đời của ông đầy gian truân khổ ải và quá ngắn hạn, hưởng dương chưa đầy năm chục tuổi đời. Ông sống nghèo, nhưng khinh bỉ những kẻ khom lưng uốn gối để được giàu sang, và tin rằng mình có thể tự thay đổi đời mình. Đến khi làm quan, muốn đem tài năng ra giúp đời, nhưng rồi Cao Bá Quát sớm nhận ra rằng vấn đề không hề đơn giản như ông tưởng. Có những lúc ông cảm thấy bất lực trước những bất công trong xã hội, ông cũng muốn an nhàn hưởng lạc thú như Nguyễn Công Trứ. Cuối cùng, con đường mà ông chọn là đến với phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Tuy cuộc nổi dậy này thời gian ngắn ngủi, Quốc sư Cao Bá Quát cùng các thủ lĩnh mất và bị thất bại. Nhưng nó là ngòi nổ làm thức tỉnh mọi người để tiến hành thành công những cuộc khởi nghĩa thắng lợi lớn hơn sau này. Điều quan trọng hơn là cuộc hành trình của Cao Bá Quát đã mở rộng kiến thức và nhận thức của ông về thế giới. Ông nhận ra sự hạn chế của kiến thức truyền thống và nhận thức được giá trị của việc mở cửa tư duy. Phái đoàn ngoại giao của Cao Bá Quát đã mang ông đi Inđônêxia, nơi ông thấy đời sống và cuộc sống của người Tây phương. Ông thấy sự phát triển của các nước Tây phương và nhận thức được nguy cơ bị xâm lược từ các nước Á Đông. Tình yêu quê hương và lòng yêu nước của ông được kích thích, và ông tin tưởng vào sức mạnh phản kháng của nhân dân trước nạn ngoại xâm. Cao Bá Quát là một nhà thơ rất có bản lĩnh, từ những tác phẩm đầu tiên đã thấy lòng tin của nhà thơ vào ý chí và tài năng của mình.
Cao Bá Quát là một trong những nhà thơ lớn của dòng văn học cổ điển Việt Nam, đánh dấu bằng sự kháng cự và tìm hiểu sâu sắc, đã để lại những dấu ấn không thể nào quên trong lịch sử văn học nước ta. Dựa vào thơ của ông, chúng ta có thể thấy rõ sự phản chiếu của cuộc đời và tâm hồn tài danh này. Cao Bá Quát là một nhà thơ sắc sảo và nhạy cảm, đặc biệt trong việc nhìn nhận cuộc đời và thế giới xung quanh. Điều này xuất phát từ tình cảm tha thiết gắn bó với quê hương và những người thân yêu. Cuộc đời ông đã trải qua nhiều khó khăn, và ông không chịu được những nghịch cảnh trớ trêu trên quê hương. Tình cảm này thúc đẩy ông không ngừng sáng tạo và tìm hiểu. Thời Lê Mạt – cuối thế kỉ XVIII, “người đàn bà mà Nho giáo sợ hãi, Phật giáo xua đuổi, lúc này thống trị toàn bộ văn học, người đàn bà xuất hiện ở mọi nơi, trở thành nữ hoàng, mà hào quang và uy tín lấn át mọi thần tượng khác”. Trong đó, nhiều tác phẩm đã có giá trị đỉnh cao, mẫu mực: Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm khúc, Đoạn trường tân thanh, thơ Nôm Hồ Xuân Hương…Tuy nhiên, sang nửa đầu thế kỉ XIX, những bài thơ chữ Hán về “phái yếu” của Cao Bá Quát vẫn có những dấu ấn riêng, khá độc đáo. Trong sáng tác Cao Bá Quát đã dành nhiều tình cảm cho các “giai nhân”: Phận hồng nhan có mong manh. Nghĩ tiếc cho ai, Giai nhân I, Giai Nhân II, Tài hoa là nợ… Trong mảng thơ chữ Hán, Cao Bá Quát có khá nhiều bài đề cập tới chủ đề phụ nữ. Đó là chưa kể những bài ông dùng những cụm từ: “tình chăn gối”, “ngủ một mình”… khiến độc giả ít nhiều liên tưởng đến người vợ mà ông yêu thương, xa nhớ. Điều này chứng tỏ mối quan tâm lớn của Cao Bá Quát đối với chủ đề phụ nữ so với các tác giả thời trung đại và so với chính hệ thống chủ đề trong thơ chữ Hán của ông. Ở đề tài này, bên cạnh sự kế thừa truyền thống biểu lộ niềm thương cảm và thái độ ngợi ca, trân trọng… Trước Cao Bá Quát, mỗi tác giả dường như đều có “sở trường” về một kiểu phụ nữ nhất định. Đặng Trần Côn viết về lời than của người chinh phụ (Chinh phụ ngâm khúc); Đoàn Thị Điểm ngợi ca những phụ nữ túc trí, tiết liệt, cá tính (Thứ phi Bích Châu, Vân Cát thần nữ,… trong Truyền kì tân phả); Hồ Xuân Hương chia sẻ, bênh vực, chở che những người đàn bà của cuộc sống đời thường với những đau khổ riêng, vẻ đẹp riêng của người phụ nữ; Nguyễn Du “đau đớn lòng” trước các kiếp “đào hoa”; Nguyễn Công Trứ đắm say cùng các đào nương…Đến thơ chữ Hán Cao Bá Quát, nhân vật nữ rất phong phú. Trước hết vẫn là các giai nhân, tài nữ, chinh phụ. Những đối tượng đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực bình phẩm, ngợi ca, cảm thương của các văn nhân. Đó là chị Hằng Nga trong tưởng tượng (Nhị thập tam dạ khán nguyệt họa Phan Hành Phủ, kì nhất). Những mĩ nhân của lịch sử: Tây Thi (Nhất khả), Chiêu Quân (Chiêu Quân), Ngu Cơ (Ngu hề). Những phụ nữ mà tên của họ đã trở thành điển tích, điển cố về tình yêu, phẩm giá: Văn Quân (Đương lư), Lục Châu (Trụy lâu); cung nữ (Cung từ), chinh phụ (Chinh nhân phụ), đào nương (Đằng Châu ca giả Phú Nhi kí hữu sở dữ, thư dĩ tặng chi)…Những hình ảnh trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát lại thuộc về những người hoặc gắn bó thân thiết với cuộc đời Cao Bá Quát như người mẹ (Quy cố trạch), chị gái (Đắc gia thư, thị nhật tác), người vợ (Tiếp nội thư tính kí hàn y, bút điều sổ sự), con gái (Mộng vong nữ). Hoặc Cao Bá Quát bất ngờ quan sát được trong những hoàn cảnh cụ thể của đời sống: cô gái tươi trẻ trong ngày tết (Nguyên triêu), cô gái nghèo khổ trên cầu lúc chiều tối (Mộ kiều quy nữ), người đàn bà Hạ Châu (Man phụ hành), thiếu phụ Tây dương (Dương phụ hành)… Mỗi người một vẻ. Họ góp phần tạo nên xu hướng “đời thường hóa”, “phi truyền thống” nữ giới trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Cách tân về cách thức miêu tả ngoại hình, hành động. Xu hướng “đời thường hóa”, “phi truyền thống” nữ giới nói trên của Cao Bá Quát được tiếp tục với bút pháp miêu tả ngoại hình, hành động nhân vật. Về cách thức miêu tả ngoại hình, ngòi bút của Cao Bá Quát ít sa vào những công thức ước lệ quen thuộc: sắc nước hương trời, hoa nhường nguyệt thẹn, chim sa cá lặn, nghiêng nước nghiêng thành…Thay vào đó, ông thường chớp lấy những đặc điểm cụ thể, sinh động, mới lạ mà đôi mắt nhà thơ bất chợt bắt gặp trong những hoàn cảnh cụ thể. Có một nét hình đẹp đẽ trong bức tranh của Cao Bá Quát vẽ về đề tài người phụ nữ người thân. Một cảm hứng xúc động tình cảm thiêng liêng của người cha đẻ với con gái đã mất là bài Mộng vong nữ, một bài thơ Đường Luật chữ Hán ngũ ngôn bát cú:
Nguyên tác:
夢亡女
親遠吾當病,
思兒每節哀。
忽然中夜夢,
驟見淚如催。
衣服寒仍破,
容顏憯不開。
菜鹽貧未缺,
辛苦汝歸來。
Phiên âm:
MỘNG VONG NỮ
Thân viễn ngô đương bệnh,
Tư nhi mỗi tiết ai.
Hốt nhiên trung dạ mộng,
Sậu kiến lệ như thôi.
Y phục hàn nhưng phá,
Dung nhan thảm bất khai.
Thái diêm bần vị khuyết,
Tân khổ nhữ quy lai.
Dịch nghĩa:
MƠ THẤY CON GÁI ĐÃ MẤT
Xa người thân, mình thì đang bị bệnh,
Nhớ con mà vẫn phải nén đau thương.
Bỗng nhiên trong giấc mơ lúc nửa đêm,
Nhác trông thấy con mà nước mắt giàn giụa.
Áo quần đã không đủ ấm lại rách,
Nét mặt buồn bã không tươi.
Nhà ta tuy nghèo nhưng dưa muối không thiếu,
Dù có đói khổ thì con hãy cứ trở về.
Dịch thơ:
MƠ THẤY CON GÁI
Đang ốm lại xa nhau
Nhớ con đành nén đau
Nằm mơ con gái hiện
Nhác thấy lệ tuôn trào
Quần áo mặc không đủ
Dung nhan buồn bã sao
Nhà nghèo cơm mắm muối
Cứ hãy trở về mau.
“Cao Bá Quát – Mộng vong nữ” tập Khúc vọng tri âm, NXB Thế Giới 2016
Hiện tượng chúng ta thường gặp là mơ thấy người thân đã mất trong cuộc sống hàng ngày. Cũng vì tình cảm thân thương gần gũi đã gây nên nỗi thương tiếc và hồi ức lại hình dáng, lời nói tính cách của người thân. Đây cũng là điềm lành mà thôi, vì “sinh dữ, tử lành”. Người cha thương con nhiều lắm ví như “đỉnh Thái Sơn “ vậy, nhưng có mấy ai nói ra thành lời và rơi nước mắt. Cao Bá Quát đã gửi gắm những lời yêu thương những lời gan ruột với đứa con. Vì thương tiếc nhớ nhung lắm nên mới sinh bệnh như trong hai câu đề của bài:
“Thân viễn ngô đương bệnh,
Tư nhi mỗi tiết ai.”
Nghĩa là :
Xa người thân, mình thì đang bị bệnh
Nhớ con mà vẫn phải nén đau thương
Người cha thương xót con nhiều lắm, có thể khóc ròng nhưng nước mắt chỉ chảy ngược vào trong thôi. Tình cha rộng lớn như vầng thái dương, thương con gái mà tuôn ra đôi câu thực như hai dòng lệ khi nhác thấy con gái mình hiện về trong giấc mơ:
“Hốt nhiên trung dạ mộng,
Sậu kiến lệ như thôi.”
Dịch nghĩa là:
Bỗng nhiên trong giấc mơ lúc nửa đêm
Nhác trông thấy con mà nước mắt giàn giụa
Hình ảnh của người thân đã in đậm trong tâm tưởng rồi, ký ức đã hằn sâu đậm nét về người thân rồi. Vậy nên khi xa cách hình ảnh ấy lại ấn tượng hơn làm rung động đến lòng thương yêu mạnh hơn. Cao Bá Quát đã thấy con gái mình đang giá lạnh trong bộ trang phục rách rưới với vẻ dung nhan buồn bã đáng thương ở đôi câu luận của bài:
“Y phục hàn nhưng phá,
Dung nhan thảm bất khai.”
Nghĩa là:
Áo quần đã không đủ ấm lại rách
Nét mặt buồn bã không tươi
Cao Bá Quát đã trìu tượng hóa cao hơn vì có tình cảm sâu nặng hơn, tình cha và con gái như duyên nợ ở kiếp trước chưa trả được vậy. Người cha đã thực lòng khuyên con cứ hãy trở về dù chỉ sống cảnh nghèo nàn đói khổ dưa muối mà thôi. Cũng vì sợ con mình phải cô đơn buồn bã một mình hay cảnh bị ma cũ bắt nạt và đói khổ rách rưới lạnh giá nữa. Người cha đã thể hiện tình thương yêu đùm bọc không muốn rời xa dù cho hoàn cảnh nghèo khó thiếu thốn đến cùng cực. Tình cảm thể hiện đến cao độ bằng những câu kết của bài thơ:
“Thái diêm bần vị khuyết,
Tân khổ nhữ quy lai.”
Dịch nghĩa:
Nhà ta tuy nghèo nhưng dưa muối không thiếu
Dù có đói khổ thì con hãy cứ trở về!
Ban đầu mới gặp có thể tâm thức trạng thái vui vẻ hơn khi thấy người thân. Về sau tâm thức sẽ đau đớn khi thấy người thân khóc lóc thương tiếc mình vì đau buồn quyến luyến mà không nỡ rời xa. Sau cơn mơ này chắc rằng người cha cùng gia quyến cần làm lễ cầu siêu cho hương linh con gái mình được siêu thoát được hưởng phúc để được tái sinh về cõi lành tịnh độ. Những người thân cũng sẽ được tăng phúc thêm phần an vui hạnh phúc và thành đạt. Sau khi gặp được và giãi bày tâm sự với người con gái đã mất trong mơ, đã bày tỏ tình cảm mang lại tâm thế bình an để có đủ duyên, đủ lực mà vững bước tiếp trong phong ba bão táp cuộc đời. Ở đây, Cao Bá Quát không chọn thể Thất ngôn thường dùng mà ông dùng Ngũ ngôn, tuy rằng đây là thể thơ khó diễn cảm nội dung tư tưởng do số thông tin ít ỏi. Chỉ với 40 ngôn từ trong bài Mộng vong nữ, tựa như 40 viên ngọc sáng long lanh lấp lánh thay đổi muôn màu nghìn vẻ vậy. Một bài thơ ngắn mà giàu “ý tại ngôn ngoại”, Cao Bá Quát đã vẽ lại bức chân dung của người con gái đã mất thật đẹp. Vẻ đẹp dung dị với nỗi buồn man mác khi xa cách người thân. Trang phục vẫn chỉ đơn sơ giản dị cũ kỹ đến mức rách rưới phong phanh giữa trời giá lạnh thật là đáng thương. Dung nhan ấy và hoàn cảnh ấy khơi dậy lòng thương cảm vô bờ bến của người cha và cuối cùng ông phải thốt lên tiếng gọi con về. Thi sĩ Xuân Diệu có nhận xét: “Cao Bá Quát trước mắt chúng ta, tượng trưng cho tài thơ và tinh thần phản kháng. Còn triết lý của ông chính là bền bĩ phục vụ cho đời…”. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 nâng cao có đoạn: “Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn, thơ ông phong phú trong nội dung cảm hứng: tình cảm thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, với người thân, sự đồng cảm nhân ái với những con người lao khổ; niềm tự hào với quá khứ lịch sử dân tộc và có thái độ phê phán mạnh mẽ đối với triều chính đương thời…” Đặc biệt qua thơ Cao Bá Quát còn bộc lộ một tâm hồn phóng khoáng và một trí tuệ sáng suốt tiếp nhận những hương vị, màu sắc mới lạ khác với cái nhìn truyền thống. Nhờ tất cả những điều ấy mà thơ ông mới mẻ, phóng khoáng, chú trọng tình cảm riêng của con người, được người đương thời rất mến mộ. Xét về vị trí lịch sử, ông là nhà thơ lớn sáng tác bằng chữ Hán kế sau Nguyễn Du. Ông đã thể hiện sự tôn vinh nghệ thuật và lòng yêu nước không biết mệt mỏi. Sự kháng cự và tìm hiểu sâu sắc trong cuộc đời Cao Bá Quát đã để lại những bài thơ đáng nhớ. Đó là nguồn cảm hứng vô tận để sáng tạo và nghiên cứu cho tất cả chúng ta và thế hệ mai sau.
MHK