Bài thơ Chiết tự của Nguyễn Ái Quốc

 BÀI THƠ “CHIẾT TỰ” TRONG NGỤC TRUNG NHẬT KÝ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC  

 

Nguyên tác

 

       
       
       
      

 

Phiên âm

CHIẾT TỰ

Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc

Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung

Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại

Lung khai trúc sản xuất chân long.

 

 

DỊCH NGHĨA

Người tù ra khỏi ngục, có khi dựng nên đất nước,

Qua cơn hoạn nạn mới rõ người trung;

Người biết lo, ưu điểm lớn,

Nhà lao mở then của trúc, rồng thật sẽ bay ra.

 

 

Bản dịch thơ của Nam Trân:

CHIẾT TỰ  

Người thoát khỏi tù ra dựng nước,

Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;

Người biết lo âu, ưu điểm lớn,

Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!

———

 

CHIẾT TỰ: Là một hình thức phân tích chữ Hán ra từng bộ phận để thành những chữ mới, như môt kiểu chơi chữ, có ý nghĩa khác hoàn toàn với ý nghĩa ban đầu.

Theo lối chiết tự – tách chữ, bài thơ này còn có nghĩa thật như sau:

Chữ tù (囚) bỏ chữ nhân (人), cho chữ hoặc (或) vào, thành chữ quốc (國). Chữ hoạn (患) bớt phần trên đi thành chữ trung (忠). Thêm bộ nhân (人) đứng vào chữ ưu (憂) trong “ưu sầu” thành chữ ưu (優) trong “ưu điểm”. Chữ nhân (人)  thêm gạch ngang sẽ thành chữ đại ().  Chữ lung (籠) bỏ bộ trúc đầu (竹) thành chữ long – rồng (龍).

Vậy bài thơ “Chiết tự”- Tách chữ, có thể hiểu nghĩa như sau:

 

DỊCH NGHĨA

 Chữ tù () bỏ nhân () thêm hoặc ()  thành chữ quốc ()

Chữ hoạn () bỏ phần chữ trên đầu (), thành chữ trung ()

Chữ nhân () thêm gạch ngang trên đầu, sẽ thành chữ đại ()

Chữ lung () bỏ bộ trúc (竹) trên đầu mới thành chữ long ().

 

 

Bản dịch thơ của Nguyễn Đình Trọng

CHƠI CHỮ

Chữ tù giống chữ nước non

Trải qua hoạn nạn người còn trung cang

Chữ nhân thành đại thêm ngang

Chữ lao bỏ mũ, khải hoàn rồng bay.  

                                              Nguyễn Đình Trọng dịch

                                       Theo  Nguồn VanDanViet.Net