Bà Huyện Thanh Quan vẻ đẹp chiều tà. Bài viết của Tiến sĩ Đỗ Lai Thuý

 

 

   Bà Huyện Thanh Quan vẻ đẹp chiều tà

                                       Đỗ Lai Thuý

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

                           Bà Huyện Thanh Quan

 Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong.

                                Thâm Tâm

.1 .

       Năm 1802, sau khi thống nhất cả nước, Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu Gia Long và định đô ở Phú Xuân, Huế. Từ đó, Thăng Long mất địa vị đầu não đất nước cả chính trị lẫn văn hóa. Thậm chí, chữ long trong tên gọi Thăng Long vốn là rồng, rồng bay lên, biểu tượng vương quyền đang lên, và/ là lý do chọn đô của Lý Công Uẩn, cũng bị đổi thành chữ longthịnh. Sự hạ thấp này hẳn làm đau lòng dân chúng Bắc Hà, nhất là các sĩ phu, những người từng ăn lộc nhà Lê như gia tộc Nguyễn Du, nhà nho Phạm Quý Thích, thầy học của ông Nguyễn Lý, thân sinh Bà Huyện Thanh Quan. Nỗi đau ấy, về sau, hẳn còn gia tăng khi cố đô Thăng Long bị đổi thành tỉnh Hà Nội, một cái tên chỉ còn ý nghĩa địa lý, vào năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), đã khiến Hồ Xuân Hương phải thốt lên: Kinh thành ngày ấy tỉnh bây giờ!

     Năm 1813, trên đường đi sứ Trung Hoa, qua Thăng Long, chứng kiến những đổi thay nơi mình đã từng sống suốt tuổi hoa niên, Nguyễn Du cảm khái:

Thiên niên cự thất thành quan đạo

Nhất phiến tân thành một cố cung.

(Nhà lớn nghìn năm thành đường cái

Một mảnh tân thành mất cung xưa)

    Nhìn Thăng Long bây giờ, thi nhân nhớ về một Thăng Long ngày xưa. Một nỗi nhớ với từng chi tiết cụ thể, đối lập nhau như nhà/ đường, thành/ cung, mới/ xưa. Và nỗi nhớ càng chi tiết, cụ thể bao nhiêu thì càng chứng tỏ nỗi đau mất biểu tượng ấy lớn bấy nhiêu. Đó là nguồn gốc và cũng là nội dung của một tâm thức chung về sau được gọi là tâm sự hoài Lê mà một lớp người đã từng sống với hoàng triều đeo đẳng.

2

    Bà Huyện Thanh Quan 1 là người Thăng Long chính gốc, dù bản thân chưa từng sống với nhà Lê, nhưng hít thở cái tâm thức chung ấy của thời đại, hẳn cũng không tránh khỏi cái tâm sự hoài Lê. Một lần, “Qua chùa Trấn Bắc”2, thi nhân thấy:

Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu

Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau

Một tòa sen rớt hơi hương ngự

Năm thức mây phong nếp áo chầu

Sóng lớp phế hung coi đã rộn

Bà tên thật là Nguyễn Nguyễn Thị Hinh, người Nghi Tàm huyện Vĩnh Thuận, cạnh Hồ Tây thuộc Hà Nội bây giờ. Không rõ năm sinh và năm mất. Nhưng căn cứ vào năm sinh và năm mất của chồng bà là ông Huyện Thanh Quan Lưu Nguyên Ôn (1804-1847) thì có thể đoán chắc một điều là bà sống vào thời Thăng Long nhà Nguyễn, thậm chí cả khi Thăng Long đã đổi thành tỉnh Hà Nội (1831)…

2 Thơ Bà Huyện Thanh Quan còn lại không nhiều. Theo đa số học giả thì gồm những bài sau: 1. “Thăng Long thành hoài cố”, 2. “Qua chùa Trấn Bắc”, 3. “Qua Đèo Ngang”, 4. “Chiếu hôm nhớ nhà”; 5. “Nhớ nhà”; 6. “Tức cảnh chiều thu”, 7. “Cảnh đến Trấn Võ”, 8. “Cành Hương Sơn”. Theo chúng tôi thì 4 bài đầu là hoàn toàn chính xác bởi có sự thống nhất từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật, bài thứ 5, “Nhớ nhà”, như là một dị bản của “Chiều hôm nhớ nhà”, hai bài 6, 7, xét từ phong cách thì không giống phong cách Bà Huyện Thanh Quan mà giống phong Cách Hồ Xuân Hương nên chúng tôi cho là của Bà Chúa thơ Nôm (xem thêm chuyên luận Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực của chúng tôi), cuối cùng bài 8 càng không hể giống tý nào cả tư tưởng lẫn phong cách Bà Huyện Thanh Quan.

Chuông hồi kim cổ lắng càng mau

Người xưa cảnh cũ nào đâu tá?

Ngơ ngẫn lòng thu khách bạc đầu!

     Trấn Bắc là một hành cung cũ đời Hậu Lê, xưa chúa Trịnh thường đem văn võ bá quan, hoặc cung tần mỹ nữ tới thưởng ngoạn cảnh Hồ Tây và bày những trò vui nhộn. Vậy mà nay đã trở nên tiêu điều, vắng vẻ, cây cỏ dãi dầu. Từ đó, thi nhân chạnh nghĩ về nhà Lê – Trịnh, như một niềm cố quốc. Chữ chạnh ở đây chỉ là nhân mà nghĩ, do điều gì đó gợi ra mà nghĩ chứ không phải lúc nào cũng đau đáu như những cựu thần nhà Lê. Hơn nữa, thi nhân cũng không nghĩ về chính cái nước cũ ấy, mà chỉ nghĩ đến nó như một niềm, một tâm sự.

     Đọc thơ Thanh Quan, nhiều người thắc mắc, sao thi nhân đang sống trên đất nước mình mà lại luôn luôn nói về cố quốc (Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau), luôn nhớ nước (Nhớ nước đau lòng con quốc quốc)? Có vẻ như có một mâu thuẫn lô – gích nào đó. Thực ra, chữ quốc/ nước không rõ nghĩa như chữ quốc gia ngày nay, có khi nó chỉ một triều đại đã từng tồn tại trên/ trong lãnh thổ quốc gia ấy. Bởi thế, về mặt xã hội, Bắc Hà (Đàng Ngoài) luôn được coi như một “nước” so với Nam Hà (Đàng Trong), và ngược lại (xem Hoàng Lê nhất thống chí). Hơn nữa, về mặt tâm lý, cùng một thực tại mà không cùng một khoảnh thời gian thì thực tại đó chưa hẳn đã như nhau. Bởi thế, Nguyễn Bính mới Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên.

     Và cũng bởi thế, Bà Huyện Thanh Quan nhìn hiện tại mà nhớ đến quá khứ. Thậm chí, nỗi nhớ làm con người ấy như rơi vào ảo giác. Thi nhân thấy quá khứ: một tòa sen thơm hơi hương vua còn rớt  và năm thức như đang giữ lưu nếp áo chầu. Sự hoài niệm đã xáo trộn thời gian, biến quá khứ thành hiện tại. Đây là một nét đậm, một nhịp mạnh trong thơ Thanh Quan. Nó không chỉ tạo ra một cảm hứng thế sự, mà còn tạo ra cái nhìn thế giớicái nhìn nghệ thuật trong thơ bà.

     Bà Huyện Thanh Quan sống trong một thời đại đầy biến động. Nhà Lê/ Mạc, chúa Trịnh/ Nguyễn, Tây Sơn/ Nguyễn Ánh liên tiếp xuất hiện và liên tiếp sụp đồ.

_________________________________________________________________1 Câu này nhiều bản chép là Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu, nhưng chúng ta thấy nó mang giọng điệu của Hồ Xuân Hương, còn Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu thì không chi hợp với phong khí của bài thơ mà còn hợp với phong cách của Bà Huyện Thanh Quan.

Nguyễn Du, một chứng nhân của thời đại ấy, đã phải thốt lên: Cổ kim bất kiến thiên niên quốc (Xưa nay chưa từng thấy một triều đại nào tồn tại được nghìn năm cả). Bà Huyện Thanh Quan cũng từng sống trong một không gian nhiều đổi thay. Đó là Thăng Long, trung tâm cũ của đất nước. Theo quy luật động học văn hóa, trung tâm bao giờ cũng thay đổi nhanh hơn và nhiều hơn ngoại biên. Hơn nữa, ở Việt Nam, mỗi triều đại mới lên ngôi thường phá hủy những công trình của triều đại trước để làm lại từ đầu. Trong một không – thời gian biến dịch như vậy, từ một cảnh quan cụ thể là chùa Trấn Bắc, Bà Huyện Thanh Quan dễ khái quát lên thành một quy luật xã hội:

                                    Sóng lớp phế hưng coi đã rộn,

                                    Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.

      Quy luật này không chỉ chi phối một cảnh quan nào đó của Thăng Long, mà toàn bộ Thăng Long và qua đó toàn bộ non sông đất nước. Đây là sự thăng hoa của thơ Thanh Quan và càng ở những bài thơ sau thì sự thăng hoa này càng lớn. Vì thế, trong “Thăng Long thành hoài cổ, cái gọi là tâm sự hoài Lê lấy ở Bà Huyện Thanh Quan đã trừu tượng hóa thêm một bậc nữa:

                                    Tạo hóa gây chi cuộc hý trường?

                                    Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.

                                    Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,

                                    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

                                    Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

                                    Nước còn cau mặt với tang thương.

                                    Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,

                                    Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

    Thi nhân trách con tạo (gây chi) biến cuộc đời thành sàn diễn của những đối thay. Thoạt tiên vẫn những đối lập xưa/ nay ấy: Xưa là lối xe ngựa đi về nhộn nhịp thì nay chỉ có cỏ thu phủ dầy; xưa là lâu đài đường bệ mà nay chỉ còn trơ lại nền cũ dưới ánh chiều tà. Rồi xuất hiện thêm một đối lập khác nữa tự nhiên/ nhân tạo. Ngày tháng (tuế nguyệt) trôi đi kéo theo những đổi thay (tang thương), nhưng đó là những đổi thay của thế giới nhân tạo, thế giới người, còn tự nhiên (đá, nước) thì vẫn bất biến (trơ gan, cau mặt). Soi vào tấm gương vĩnh hằng của tự nhiên, đời sống nhân tạo từ xưa đến nay (kim cổ) càng trở nên giả tạm và thoáng chốc. Con người đối diện với cảnh tượng này (cảnh đấy, người đây) được thức nhận, tỉnh táo hơn so với con người ảo giác ở chùa Trấn Bắc. Nhưng, vì thế, cũng đau khổ hơn. Và cô đơn hơn.

     Đến đây, có thể nói, cái chữ tâm sự hoài Lê thường được dùng như một từ – chìa khóa để nghiên cứu các nhà thơ sau Lê, thì ở Bà Huyện Thanh Quan nếu có cũng đã dần dần trở nên rỗng nghĩa, mất nội dung cụ thể. Thăng Long thời Lê chỉ còn là một biểu tượng của một quá khứ vàng son đã một đi không trở lại. Thậm chí chỉ còn là biểu tượng của một dĩ vãng chung chung. Một hoài niệm, một nỗi nhớ về nỗi nhớ. Nỗi nhớ cấp hai này tạo thành nội dung sống và thi cảm hơn của Bà Huyện Thanh Quan.

3

  Được gọi vào Huế làm Cung Trung giáo tập, Bà Huyện Thanh Quan giã từ Thăng Long. Những tưởng rằng sự thay đổi không gian sẽ làm thay đổi thời gian (Van lạy không gian xóa những ngày – Hàn Mặc Tử). Nhưng hóa ra phong cảnh không lay chuyển được tâm cảnh, mà, ngược lại, còn bị tâm cảnh nhuộm màu. Điều này có thể thấy rõ khi thi nhân “Qua Đèo Ngang“.

                                   Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,

                                   Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

                                   Lom khom dưới núi tiều vài chú,

                                   Lác đác ven sông rợ mấy nhà.

                                   Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

                                   Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

                                   Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

                                   Một mảnh tình riêng, ta với ta.

 Cảnh Đèo Ngang thật khác xa với cảnh Thăng Long. Nhiều thiên nhiên hơn, ít nhân tạo hơn. Nhìn gần, thi nhân thấy thiên nhiên cũng chen chúc. Một mặt, cái hữu sinh (cỏ cây) lấn át cái vô sinh (đá), mặt khác, trong giới hữu sinh, cái thô lậu hơn (lá) lại  lấn át cái tinh tế hơn (hoa). Còn nhìn xa: vạn vật thu lại như trong hòn non bộ. Con người thì nhỏ nhoi, cực nhọc (Lom khom dưới núi tiều vài chú), nơi “vui như chợ, “đông như chợ” thì cũng lại thưa thớt (Lác đác ven sông chợ mấy nhà). Thật khác xa với cảnh chen chúc của thiên nhiên. Thực ra, cảnh tượng Đèo Ngang rất hùng vĩ, nhưng trong con-mắt-tâm-trạng của nhà thơ thì nó đã trở thành cảnh mọn, thậm chí tiêu điều. Chẳng khác gì sự tiêu điều của Thăng Long. Nội tâm đã chi phối ngoại cảnh (Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ – Nguyễn Du).

     Đứng trên đỉnh Đèo Ngang, nghe tiếng quốc kêu, Bà Huyện Thanh Quan nhớ đến nước; nghe chim đa đa (đa đa, bát cát quả cà, bắt cô trói cột…) kêu, thi nhân thấy thương nhà. Niềm hoài cổ luôn chờ chực sẵn, còn sự đồng âm kia (cuốc là chim và quốc là nước, da da là chim và gia là nhà) chỉ là một cái cớ. Đến đây, trên đỉnh đèo, thiên nhiên vốn chen chúc tạo thành một hợp thể ở chân đèo, đã rã ra thành những yếu tố riêng rẽ: trời, non, nước. Và con người cũng trở thành một yếu tố đơn lẻ, ngậm một mảnh tình riêng mà chỉ biết chia sẻ với chính mình (ta với ta).

     Bà Huyện Thanh Quan, như vậy, đã vượt qua được một Đèo Ngang địa lý mà không qua nổi một Đèo Ngang tâm lý. Tâm tình hoài cổ vẫn là một hành trang bất ly thân của bà trên đường vào Huế. Bởi thế, hành trang ấy càng đi xa càng trở thành một gánh nặng. Nồi nhớ Thăng Long, nỗi nhớ về nỗi nhớ Thăng Long đè nặng tâm hồn người lữ thứ, trở thành nỗi nhớ nhà mỗi khi chiều về trên con đường thiên lý:

                                Chiều trời/bảng lảng bóng hoàng hôn,

                                Tiếng ốc xa đưa vằng trống dồn.

                                Gác mái ngư ông về viễn phố,

                                Gõ sừng mục tử lại cô thôn.

                                Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,

                                Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

                                Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,

                                Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.

      “Chiều hôm nhớ nhà” là một tâm trạng cố hữu, thường hằng của động vật, của con người. Mỗi khi ngày hết, mọi sinh linh đều tìm về nhà, tổ ấm, chốn nương thân để được che chở, nghỉ ngơi. Băng những động tác dứt khoát, sảng khoái (gác mái, gõ sừng), ngư ông và mục tử ra về. Và tuy đích đến là bến xa (viễn phố), thôn lẻ (cô thôn), nhưng họ còn có nơi để mà về. Còn người lữ thứ kia, giống như con chim bạt gió, mặc dù đang chồn bước, nhưng không có nhà để mà về. Có chăng là về với sự nhớ nhà, sự nhớ sự nhớ nhà?

      Bởi thế, đường đi dường như không bao giờ kết. Và cũng bởi thế, người lữ khách trở thành một trường lữ, một người đi/ đi mãi…

4

    Nếu lâu đài ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương được xây dựng bởi những động từ chỉ hành động, tính từ chỉ phẩm chất, và trạng từ chỉ cách thức và cường độ, thì tháp (ngà) thơ Bà Huyện Thanh Quan lại chỉ được kiến tạo bằng những danh từ mà phần lớn lại là danh từ Hán Việt: tạo hóa, hý trường, tinh sương, thu thảo, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, kim cổ, đoạn trường, cố quốc, phế hưng, hoàng hôn, ngư ông ,mục tử, viễn phố, cô thôn, chương đài, lữ thứ, khoáng dã, bình sa… Nhiều câu thơ của Thanh Quan dường như chỉ là sự ghép lại của những danh từ:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

   Danh từ chỉ sự vật ở cấp độ khái niệm. Làm thơ bằng những danh từ, Bà Huyện nhìn sự vật ở những bản chất của nó, bỏ qua tất cả những gì là cụ thể, sống động. Một người như thế là giữ một khoảng cách với cuộc sống, xa lánh cuộc đời, lẩn trốn hiện tại. Khoảng cách đó còn được nhân lên một lần nữa, bởi các danh từ của Thanh Quan hầu hết là danh từ Hán Việt. Cùng chỉ một loài thực vật, nhưng cỏ (thuần Việt) và thảo (Hán Việt) gieo ý vào tâm trí người đọc những cảm xúc và tưởng tượng khác nhau. Cỏ bao giờ cũng gợi nhắc đến một thứ cỏ cụ thể nào đó. Nó đánh thức trong ta những kỷ niệm. Còn thảo thì chỉ là một âm vang xa xôi, trang trọng và nhòe nghĩa. Như vậy, sự khác nhau giữa từ thuần Việt và từ Hán Việt không đơn thuần ở sắc thái ngữ nghĩa, ở độ âm vang của con chữ, mà còn ở một cái nhìn.

  Bà Huyện Thanh Quan thường nhìn cảnh vật vào mùa thu: Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, bằng tấm-lòng-con-mắt-thu: Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu. Thậm chí, ngay cả khi thi phẩm không có chữ thu nào, thì bạn đọc vẫn cảm nhận được cảnh ấy, vật ấy đang thu: cỏ dãi dầu, tòa sen rớt, thức mây phong, ngàn mai gió cuốn, dặm liễu sương sa, còi mục thét trăng, chài ngư tung gió… Một hồn thu ngấm từng con chữ phả vào hồn người đọc: Hơi thu lạnh lẽo khí thu lòa (Đỗ Phủ).

  Cảnh thu ấy còn được thi nhân nhìn vào buổi chiều, trong bóng chiều tà. Trong năm bài thơ chắc chắn là của Bà Huyện Thanh Quan thì có đến bốn bài có những từ khác nhau chỉ bóng chiều tà:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà.

                        (“Qua Đèo Ngang“)

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

                                        (“Thăng Long thành hoài cổ“)

    – Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn.

                              (“Chiều hôm nhớ nhà”)

             – Vàng tỏa non tây bóng ác tà.

              (“Nhớ nhà”)

       Với tần số xuất hiện cao như vậy, lại ở vào một vị trí đặc biệt (hầu hết đều ở cuối câu mở thi phẩm), có thể nói, bóng chiều tà chính là từ – chìa khóa để mở vào tòa cổ tự thơ Thanh Quan. Bóng chiều tà còn là lăng kính để thi nhân nhìn cuộc đời. Dưới bóng chiều tà, cảnh vật mùa thu vốn đã tiêu điều đổ nát càng thêm đổ nát tiêu điều. Nhưng cũng trong ánh chiều tà ấy, sự vật lại bừng sáng lên lần cuối cùng cái huy hoàng của tàn tạ, để rồi vĩnh viễn lịm tắt.

     Bà Huyện Thanh Quan không chỉ giữ một khoảng cách với cuộc đời, mà còn giữ một khoảng cách với cả chính mình. Khi trên đỉnh Đèo Ngang, thi nhân nói ta với ta là đã có sự phân thân. Ta tự chia ta thành một cái ta khác để chia sẻ mảnh tình riêng cho bớt cô đơn. Nhưng dẫu sao chữ tà này cũng vẫn là nhân xưng ngôi thứ nhất. Tuy nhiên, điều này chỉ diễn ra một lần, khi cảm xúc của thi nhân lên đến đỉnh điểm. Còn ở tất cả những trường hợp khác, Bà Huyện Thanh Quan đều tự gọi mình ở ngôi thứ ba số ít. Một cách tự xa lạ hóa mình. Đó là người “Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường”; “Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ, kẻ “Mấy kẻ tình chung có thấu là…), đặc biệt là khách “Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu); “Dặm liễu sương sa khách bước dồn”; “‘Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà“.

         Tự nhận mình là khách, Bà Huyện Thanh Quan đã tự gián cách mình với mình, một hình thức cực đoan nhất của sự tự gián cách mình với cuộc đời. Bà khẳng định mình chỉ là một người khách đến với cuộc đời này. Đến rồi đi không có gắn bó gì hết. Nhất là ở đây và bây giờ. Điều này còn được thể hiện rõ một lần nữa qua các bài thơ của thi nhân. Hai nhan đề có từ qua (“Qua Đèo Ngang“, “Qua chùa Trấn Bắc“), hai có từ nhớ (“Chiều hôm nhớ nhà“, “Nhớ nhà“), một có từ hoài (cổ), cũng là nhớ (“Thăng Long thành hoài cổ“). Như vậy, khoảng cách giữa thi nhân và cuộc đời được thiết lập ở cả ba chiều kích: qua là không gian; hoài cô là thời gian và nhớ nhà là tâm lý. Nghĩa là, người lữ khách ấy chỉ là người đi ngang qua cuộc đời, ghé lại đây thoáng chốc, để rồi chỉ có nhớ hoài, hoài nhớ.

5

   Mùa thu là mùa tàn của một năm.

Chiều tà là giờ tàn của một ngày.

Thơ Bà Huyện Thanh Quan là thơ mùa thu và chiều tà. Thời gian tàn tạ ấy lại gắn vào không gian đổ nát: một tòa thành cố, một ngôi chùa hoang vắng, lối xưa nền cũ của những lâu đài cung điện, một cảnh đèo heo hút, hoang vu, một bến sông xa, một bãi cát rộng, một con đường… Cảnh vật trong không – thời gian ấy đều hướng tới một sự suy tàn, tiêu vong. Mặc dù buồn về những cảnh tượng như vậy, nhưng thi nhân vẫn thấy được vẻ đẹp của sự tiêu vong. Thậm chí, càng tàn tạ càng bừng lên một vẻ đẹp khó hiểu. Tâm trạng này cũng giống như cái nhìn của Tản Đà sau này: Lá sen tàn tạ trong đầm/ Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa (“Cảm thu tiễn thu“). Một tâm lý như vậy hần ẩn sâu bên trong một xung năng vô thức nào đó.

Thơ Bà Huyện Thanh Quan là sự đi về giăng mắc dài dài những vấn đề tư tưởng nghệ thuật ở cả phương diện vi mô lẫn vĩ mô. Trước hết là sự trùng lặp về chú đề: cả năm bài thơ đều là sự hoài niệm quá khứ. Cảnh tượng phong cảnh đều là mùa thuchiều tà. Tâm cảnh đều là sự nhớ nước. Nhân vật trữ tình bao giờ cũng là người đi. Sau đó là sự lặp lại của từ ngữ như thu (hồn thu, lòng thu), bóng xế tà (bóng hoàng hôn, bóng ác tà…), kim cổ (gương cũ soi kim có, chuông hồi kím cố), cổ (cỏ dải dầu; cỏ cây chen đá)… Đặc biệt là sự lặp lại với tần số cao những từ chỉ tâm trạng của tác giá: niềm cố quốc, nhớ nước, thương nhà, nỗi hàn ôn, kẻ tình chung, mảnh tình riêng… Sự lặp đi lặp lại ở nhiều phương diện như vậy thế hiện một sự trì trệ, một trạng thái không động, một sự suy tàn. Điều đặc biệt là Bà Huyện Thanh Quan không chi bị cuốn hút bởi sự suy tàn, mà còn thấy vẻ đẹp của suy tàn. Điều “nghịch dị” này thường trực trong thi phẩm của bà đến mức thành ám ảnh. Ám ảnh đó ẩn chứa một xung năng vô thức mạnh mẽ mà phân tâm học gọi là bản năng chết (thanatos). 1 Đến đây, người ta bỗng thấy ý nghĩa sâu xa, nhiều tầng lớp trong nỗi buồn, sự hoài niệm quá khứ, sự cách vời cuộc sống hiện tại của Bà Huyện Thanh Quan. Căn cốt của buồn đó là sự cuốn hút của thi nhân về phía thanatos, sự nghỉ ngơi vĩnh cửu, sự yên tĩnh đời đời. Đó mới là nhà, là gốc, là nơi về thực sự của thi nhân. Còn nỗi buồn về thế sự đối thay, mọi thứ đều giả tạm, mong manh, thoáng chốc chỉ là “bản chất hàng hai”, nói theo ngôn từ của triết gia Trần Đức Thảo. Như vậy, cái tâm sự hoài Lê kia chỉ là tấm áo khoác, là duyên cớ, hay “bản chất hàng ba”, cái trên cùng, bề mặt.

­­­­­­­­­­­­­­  S.Freud đã hai lần đứa ra mô hình bộ máy tâm thần: 2) bản năng chết và bản năng sống; 1) Di ngã – bản ngã – siêu ngã. Vể bản năng chết, nó thể hiện khuynh hướng bất khả kháng của mọi sinh vật sống là phải quay về trạng thái vô cơ. Biểu hiện của bản năng chết là sự lặp lại một trạng thái, nồi buồn, nỗi đau có trước nào đó. Bản năng chết còn thể hiện ở bản năng gây gổ, bản năng hủy diệt, đặc biệt là hủy diệt chính bản thân mình. Bởi thể, người có bản năng chết mạnh thường hay/ thích/ cố ý tự tử.

6

Như vậy, với sự hướng về bản năng chết, Bà Huyện Thanh Quan càng là một đối trọng của Hồ Xuân Hương. Sự đối trọng trên mọi cấp độ. Thơ Xuân Hương, như đã nói, được kiến tạo bằng những động từ chỉ hành động, thậm chí hành động cơ bản nhất của con người như đạp, móc, xuyên…, bằng tính từ chỉ phẩm chất như cửa son, đỏ loét, trạng từ chỉ cách thức và mức độ cùng cực như đâm toạc, khua lốc cốc… Hồ Xuân Hương, bởi thế là người áp sát với đời sống, người không có khoảng cách với cuộc đời, người nhìn cuộc đời trong sự chuyển động, sự vận động không ngừng của nó, trong màu sắc, hình khối, kích thước, âm thanh của nó. Đó là một thi nhân yêu sự sống, tôn sùng sự sống. Hồ Xuân Hương là người có một bản năng sống (éros) mạnh mẽ.

Hồ Xuân Hương, bởi thế, không chịu nằm yên trong khuôn khổ Đường thi, một thể loại thơ trang nghiêm, hài hòa đến tuyệt đối. Trái với thi pháp thơ Đường, thi nhân đưa vào thơ mình vô vàn những chi tiết tỉ mỉ, cụ thế, thậm chí sống sít của đời sống, những từ láy đôi láy ba hết sức dư thừa, những tử vận hiểm hóc, thách đố. Đặc biệt những cặp câu thực và luận, mặc dù đối vẫn rất chỉnh, nhưng ít nhiều đã ngả sang đối xứng để ám chỉ những chuyện tính giao nam nữ như:

                              – Trai du gối hạc khom khom cật

                       Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

(Đánh đu)

Hai chân đạp xuống năng năng nhắc

                       Một suốt đâm ngang thích thích mau

(Dệt cửi)

Toàn bộ thơ Hồ Xuân Hương, nhìn chung, vừa tuân theo những nguyên tắc, luật lệ của thơ Đường vừa chống lại nó. Bà đã phá vỡ tính tinh giản, kiệm từ, trang trọng cách vời, đặc biệt tinh thần hài hòa của nó. Tuy nhiên, đó chỉ là sự phá vỡ cái hài hòa cục bộ, tức hài hòa trong nội bộ văn bản bài thơ, để sau đó lại thiết lập nên một hài hòa mới, rộng hơn, giữa bản thân bài thơ và vũ trụ quanh bài thơ đó nhờ vào vũ trụ luận cổ sơ của tín ngưỡng phồn thực. Vì thế, Hồ Xuân Hương đã sáng tạo ra một thứ thơ Đường luật mới.

Đó là tinh thần Eros.

Bà Huyện Thanh Quan, ngược lại, vẫn trung thành với thể thơ luật Đường chính thống. Thơ Thanh Quan được làm bằng những danh từ, lại là danh từ Hán Việt, nên tạo ra được một sự trang trọng, cách vời, thậm chí uy nghi đường bệ. Thơ bà hoàn toàn không có các từ nối, “từ nước”, mà toàn những từ “đặc”. Phép tỉnh lược được vận dụng đến mức tối đa. Không gian và thời gian thống nhất với nhau. Con người và vũ trụ thống nhất với nhau. Mỗi bài thơ là một thế giới thống nhất, biệt lập, tự trị. Năm bài thơ cũng tạo thành một thế giới thống nhất biệt lập và tự trị. Một Ngũ Hành Sơn trên cánh đồng thơ Việt.

Sở dĩ nói thơ Đường Bà Huyện Thanh quan là Đường thi chính thống vì nó vẫn giữ được hồn Đường. Đây là điều ít nhà thơ đạt được kể cả những thi nhân Trung Hoa sau Đường. Bởi vậy, nếu nói về việc làm thơ Nôm Đường chuẩn nhất, Đường nhất ở Việt Nam thì thứ nhất phải kể đến Bà Huyện Thanh Quan. Sự Việt hóa thơ Đường ở thi nhân, nếu có, chỉ là việc nhà thơ kín đáo thả nữ tính của mình vào bài thơ. Thi nhân nói nhiều đến mai, liễu vốn là những từ chỉ phụ nữ trong thi liệu Đông phương. Nguyễn Du đã từng khen chị em Thúy Kiều là mai cốt cách tuyết tinh thần, rồi Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh. Bà Huyện Thanh Quan, đặc biệt hơn, khi dùng chữ kẻ chốn Chương Đài thì đã nói về liễu Chương Đài, về người phụ nữ. Ngoài ra, thơ Thanh Quan cũng nói nhiều đến cỏ, thứ thực vật rất gần với thân phận phụ nữ. Chính nữ tính này của thi nhân đã làm mềm hóa, thân mật hóa thể thơ Đường luật vốn đạo mạo, trang nghiêm, đôi lúc đến lạnh lùng.

Nét riêng nữa của thơ Đường Thanh Quan là sự xuất hiện của người lữ thứ. Người đi – đường – chứng – kiến kể lại những “điều trông thấy” của mình, cảm xúc của mình, nỗi buồn nhớ của mình bằng một giọng điệu tâm tình, thủ thỉ, thỉnh thoảng lại xen tiếng thở dài, nhưng cũng không hiếm khi có sự nồng ấm của thân xác (như khi gọi niềm tâm sự của mình là nỗi hàn ôn!). Thơ Đường do ảnh hưởng của Thiền học, vốn là một thứ mỹ học tĩnh. Nhưng với sự xuất hiện con người lữ thứ, thơ Đường Thanh Quan đã bắt đầu có sự chuyển dịch, tuy còn rụt rè, về phía động. Cái động ấy là sự bùng lên huy hoàng của ánh chiều tà trước khi tắt hẳn, một cái đang tàn lụi. Đó là ảnh xạ của ý thức cá nhân đã bắt đầu thức tỉnh trong lớp người tài tử đương thời.

Tuy số lượng bài để lại không nhiều, nhưng, có thể nói, thơ Thanh Quan là những dấu son của thơ Việt trung đại. Nghĩ đến Bà Huyện, tôi cứ nghĩ tới bức chân dung Người đàn bà xa lạ của họa sĩ Nga Kramskoi; ngồi bất động trên xe ngựa và sau lưng là kinh thành Peterburg mù sương. Cũng đẹp một vẻ đẹp sang trọng, đài các và cách vời như thế, duy có đôi mắt là rực bóng hoàng hôn. Còn đọc thơ Thanh Quan, tôi mường tượng đến một chiều thu, khi mặt trời đã tắt, nhưng còn hắt lên nền trời những dải sáng vàng rực, thuần khiết, và không biết người thợ trời nào đã cắt dải sáng đó thành những bài tuyệt tác.

Chùa Thày, tháng 9,năm 2024, Đỗ Lai Thúy